Richard
Stengel
LGT. Nelson Rolihlahla Mandela là cựu tổng thống Nam Phi và cũng là vị tổng
thống đầu tiên được toàn quốc Nam Phi kể cả người Nam Phi da trắng và da đen
bầu ra. Sinh năm 1918, năm nay 93 tuổi, Mandela đã trải qua một thời gian dài
đấu tranh bằng phương pháp bạo lực vũ trang để chấm dứt chế độ phân chủng tại
Nam Phi. Vì những hoạt động này ông đã bị kết án tù chung thân và phải chịu sự
giam cầm trong suốt 27 năm tại những nhà tù hắc ám nhất của Nam Phi. Sau này
Mandela thay đổi chiến lược tiến hành đấu tranh bất bạo động và được trả tự do
năm 1990. Trong cuộc bầu cử đa đảng và đa chủng đầu tiên năm 1994, đảng ANC của
Mandela đã giành thắng lợi, và ông trở thành vị tổng thống da đen đầu tiên
trong lịch sử của nước Nam Phi. Mandela nhận được hơn 250 huy chương và giải
thưởng cho những hoạt động của ông, kể cả giải Nobel Hòa bình năm 1993. Richard
Stengel là nhà văn và ký giả đã cộng tác với Mandela để viết cuốn tiểu sử tự
bạch"Bước Đường Tự Do" của Mandela.
Bài viết này được đăng trên Tạp chí Time, số ra ngày 9 tháng Bảy, năm 2008, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 90 của Mandela.
***
Nelson Mandela chỉ cảm thấy thoải mái khi ở gần trẻ
con, và ta có thể nói rằng sự mất mát lớn nhất mà ông phải chịu trong 27 năm tù
là không được nghe tiếng khóc của trẻ con hay được cầm lấy tay chúng. Tháng vừa
rồi, khi tôi đến thăm Mandela tại Johannesburg, tôi gặp một Mandela chậm chạp
hơn, gầy yếu hơn-hành động tự nhiên đầu tiên của ông là dang tay ôm hai đứa con
trai của tôi vào lòng. Chỉ trong giây lát chúng cũng quấn quít lấy ông lão đang
thân mật hỏi han chúng ăn gì vào buổi sáng và thích môn thể thao nào nhất.
Trong lúc chúng tôi chuyện trò, Mandela ôm lấy con trai tôi, bé Gabriel. Cháu
có cái tên đệm khá rắc rối là Rolihlahla. Cái tên này cũng là tên cúng cơm thật
sự của Mandela. Ông kể cho Gabriel sự tích cái tên đó, và ý nghĩa của nó trong
tiếng Xhosa[1]là
"kéo cành cây xuống" nhưng ý nghĩa thực sự của nó là "kẻ gây
rối."
Tuần sau, Nelson Mandela sẽ kỷ niệm sinh nhật thứ
90, [trong từng ấy năm,] ông là kẻ đã gây đủ rắc rối cho cả vài kiếp người. Ông
đã giải phóng đất nước ông ra khỏi một hệ thống đầy thành kiến quá khích và góp
phần vào đoàn kết sắc dân da trắng và đa đen, những kẻ đàn áp và những người bị
đàn áp, bằng một phương thức vô tiền khoáng hậu. Năm 1990, tôi làm việc với
Mandela gần hai năm để thực hiện cuốn tiểu sử tự bạch Bước Đường Dài Tự Do.
Sau chừng ấy thời gian làm việc với ông và khi cuốn sách đã viết xong, tôi cảm
thấy một sự hụt hẫng khủng khiếp, như thể mất đi ánh sáng mặt trời. Thỉnh
thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau trong những năm qua, nhưng tôi muốn gặp ông lần
này, biết đâu lại chẳng là lần cuối, và cho hai đứa con tôi gặp ông thêm một
lần nữa.
Tôi cũng muốn bàn với ông về thuật lãnh đạo. Mandela
là người mà thế giới có thể xem là một ông thánh ở cõi phàm, nhưng ông vẫn cho
là ông tầm thường hơn thế nhiều: chỉ là một chính trị gia mà thôi. Ông đã lật
đổ được chế độ Phân chủng và kiến tạo nên một nước Nam Phi dân chủ không phân
biệt chủng tộc bằng sự phán đoán chính xác phải thay đổi những vai trò của ông
vào lúc nào và như thế nào, [lúc thì] là một chiến sĩ, một nhà tử đạo, một nhà
ngoại giao, và một nhà lãnh đạo tầm vóc quốc gia. Là người không thoải mái
lắmvới những khái niệm triết học trừu tượng, Mandela vẫn thường bảo tôi là [khi
đối phó với] một vấn đề "không phải là một câu hỏi về nguyên tắc, mà là
một câu hỏi về chiến thuật." Ông là một bậc thầy về chiến thuật.
Mandela cũng không cảm thấy thoải mái khi có người
thăm viếng hay xin xỏ ân huệ này nọ. Một mặt ông e rằng ông sẽ không thể đáp
ứng được sự mong đợi của người dân khi họ đến thăm và xem ông như một vị thánh
sống, và mặt khác, ông cũng còn khá tự ái vì nếu không đáp ứng được thì họ nghĩ
là ông đã hết thời. Nhưng thực ra, thế giới chưa bao giờ cần đến những tài năng
và vai trò của ông-một chiến thuật gia, một nhà vận động chính trị, một chính
trị gia-hơn là lúc tại London, ngày 25 tháng Sáu, khi ông đứng lên và lên án sự
tàn bạo dã man của nhà độc tài Robert Mugabe của xứ Zimbabwe. Và khi ta đang đi
vào giai đoạn chính của cuộc tranh cử tổng thống mang đầy tính lịch sử tại Mỹ[2],
Mandela có nhiều điều có thể dạy cho hai ứng cử viên. Tôi luôn luôn nghĩ rằng
những điều mà độc giả sắp đọc dưới đây phải được coi là Những Định Luật của
Madiba (tên tộc của ông dùng trong bộ lạc hay những người thân cận thường
gọi), những quy luật chính trị mà tôi đã thu nhặt được trong những lần đàm luận
với ông và qua những sự quan sát cách ứng xử của ông từ xa cũng như ở gần. Tất
cả những quy luật này đều mang tính thực tiễn. Và nhiều điều được rút ra từ
chính kinh nghiệm bản thân của Mandela. Tất cả đều được tính toán để tạo ra một
sự rắc rối tốt đẹp nhất: một sự rắc rối buộc ta phải đặt câu hỏi là làm thế nào
để thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
Bài học thứ nhất: Can đảm không có nghĩa là không biết sợ-Can
đảm là truyền dũng khí "vượt qua nỗi sợ" cho kẻ khác
Năm 1994, khi đang vận động tranh cử tổng thống (lần
đầu tiên trong lịch sử Nam Phi), Mandela đi một chiếc phi cơ nhỏ bay bằng cánh
quạt để thăm tỉnh Natal, nơi đã từng là bãi chiến trường, và nói chuyện với
những người gốc Zulu đang ủng hộ ông. Tôi đồng ý gặp ông sau khi ông nói chuyện
xong để còn tiếp tục công việc phỏng vấn. Khi máy bay còn cách phi trường
khoảng 20 phút, thì một động cơ bị hỏng. Một số người trên phi cơ bắt đầu hoảng
hốt. Điều duy nhất giúp họ giữ được bình tĩnh chính là cử chỉ của Mandela; ông
thản nhiên và yên lặng đọc báo như thể là đang đi trên chuyến xe lửa đến văn
phòng làm việc. Ở bên
dưới, phi trường chuẩn bị cho máy bay đáp khẩn cấp và viên phi công cũng đưa được máy bay đáp an toàn. Khi Mandela và tôi ngồi vào băng ghế sau của chiếc xe BMW được bọc thép chắn đạn để đi đến chỗ họp, ông quay sang nói với tôi: "Chúa ơi, tôi sợ phát khiếp lên được khi máy bay bị hỏng động cơ trên không."
Trong thời gian hoạt động bí mật, Mandela cũng có
nhiều phen sợ hãi, như trong phiên xử tại Rivonia,[3]hay trong thời kỳ bị giam giữ tại nhà tù
trên Đảo Robben.[4] Ông nói với tôi: "Dĩ nhiên là
tôi sợ chứ!" Chỉ có những kẻ mất trí mới không biết sợ thôi. "Tôi
không thể giả vờ là mình là người can đảm và có thể chiến thắng cả thế
giới." Nhưng là một nhà lãnh đạo, ta không thể để cho người dân biết được
điều này. "Ta phải tạo ra một bộ mặt can đảm."
Và đó chính là điều ông đã thực tập: làm bộ can đảm,
và những hành động có vẻ "vô úy" ấy đã tạo niềm hứng khởi và dũng khí
cho người khác. Đó là một vở kịch câm mà Mandela đã diễn xuất tuyệt hảo trên
Đảo Robben, một nơi nổi tiếng là rùng rợn. Những tù nhân bị giam chung trên đảo
nói rằng chỉ cần nhìn thấy Mandela bước quanh sân trại, ngực ưỡn thẳng đầy kiêu
hãnh, cũng đủ để giúp cho họ thêm sức sống trong nhiều ngày. Mandela biết rằng
ông là tấm gương cho người khác và đó cũng giúp cho ông sức mạnh để vượt qua
nỗi sợ của riêng mình.
Bài học thứ hai: Lãnh đạo phải đi đầu-nhưng đừng để
"hậu cứ" lại đằng sau
Mandela là một người khôn ngoan và kín đáo. Năm 1985
ông phải giải phẫu vì tuyến tiền liệt bị nở lớn. Khi trở lại nhà tù, ông bị
giam riêng không cho ở chung với các bạn đồng tù nữa, những người đã ở chung
với ông trong 21 năm. Họ phản đối trại giam về lệnh phân cách này. Nhưng, theo
lời của Ahmed Kathrada, một người bạn thâm giao, Mandela đã nói với bạn tù là:
"Các bạn, cứ từ từ. Biết đâu trong việc này lại chẳng có điều hay.
Điều hay xảy đến chính là việc Mandela tự ý tiến
hành đàm phán với chính phủ phân chủng. Điều này là điều cấm kỵ bậc nhất của tổ
chức Hội nghị Toàn quốc Phi Châu (African National Congress-ANC). Sau hàng bao
thập niên tuyên bố rằng "tù nhân không thể đàm phán" và sau khi cổ võ
cho đấu tranh vũ trang để lật đổ chế độ phân chủng, Mandela đã quyết định rằng
bây giờ là đúng thởi điểm để bắt đầu "nói chuyện" với những người
đang thống trị và đàn áp mình.
Khi Mandela đề xướng đàm phán với chính quyền năm
1985, rất nhiều người nghĩ rằng ông đã thua trong cuộc đấu tranh rồi. Cyril
Ramaphosa, lúc đó là một lãnh tụ có thế lực và nồng nhiệt của Công đoàn Phu Mỏ
Quốc gia, đã nói: "Chúng tôi nghĩ ông ấy là kẻ phản bội. Tôi đã đến gặp
chỉ để nói với ông là ‘Anh đang làm cái gì vậy?' Đó quả là một đề xuất không
thể tin nổi. Và ông đã chấp nhận một sự rủi ro vô cùng lớn lao."
Mandela phải mở một chiến dịch để thuyết phục ANC
rằng con đường ông chọn là con đường đúng đắn. Ông đặt cược bằng tất cả uy tín
của mình. Kathrada nhớ lại là ông đi đến từng đồng chí một, những người cùng bị
giam trong tù, để giải thích và thuyết phục họ về con đường ông chọn. Từ từ và
thận trọng, ông đã thuyết phục được họ cùng đồng hành. Ramaphosa, lúc đó là
tổng thư ký của ANC và bây giờ là một đại doanh gia, nói: "Bạn phải mang
được hậu cứ đi theo với bạn. Khi đã tới điểm đổ bộ, lúc đó để cho họ tiến bước.
Mandela không phải là loại lãnh tụ "kẹo cao-su"-nhai xong rồi bỏ.
Đối với Mandela, từ chối không đàm phán hoàn toàn là
vấn đề chiến thuật, chứ không phải nguyên tắc. Trong suốt cuộc đời, hành động
của ông thể hiện rõ nét sự khác biệt này. Cái nguyên tắc vững chắc của ông-lật
đổ chế độ phân chủng và đạt được thể chế mỗi người, một phiếu-là một nguyên tắc
không thể thay đổi được. Nhưng hầu như bất cứ điều gì giúp ông đạt được mục
đích đó, ông đều xem là chiến thuật. Phải nói Mandela là một người lý tưởng
thực tiễn nhất.
Ramaphosa nói: "Ông ấy là một con người lịch
sử. Tầm suy nghĩ của ông vượt xa chúng tôi. Ông luôn nghĩ đến hậu thế trong tư
duy của mình: Thế hệ mai sau sẽ nghĩ thế nào về những việc ta đã làm?"
Cuộc sống lao tù đã tạo cho ông khả năng có tầm nhìn chiến lược lâu dài. Bắt
buộc phải như vậy thôi, vì đi tù chung thân biết đến ngày nào được thả [mà nghĩ
đến chuyện gần]. Ông không nghĩ theo ngày hay tháng, mà cả hàng thập niên về
sau. Ông biết là lịch sử đồng hành với ông, và sự thành công là điều tất yếu; chỉ
còn lại là vấn đề chừng nào và làm thế nào để đạt được sự thành công này. Ông
thường nói, "về lâu về dài tình hình sẽ khá hơn." Ông chấp nhận đấu
tranh trường kỳ.
Bài học thứ ba: Lãnh đạo từ phía sau-và để cho người khác
tưởng họ đang dẫn đầu
Mandela rất thích hồi tưởng lại thời thơ ấu và những
buổi chiều chăn trâu nhàn hạ. Ông nói: "Bạn biết không, chăn trâu bạn phải
chăn từ phía sau đàn." Nói xong ông nhướng mắt nhìn xem tôi có hiểu được
sự so sánh ấy không.
Khi còn là một đứa trẻ, Mandela chịu ảnh hưởng sâu
đậm của Jonginbata, vị vua của bộ tộc Xhosa và là người đã nuôi dưỡng ông
khôn lớn. Khi Jonginbata thiết triều, quần thần tụ tập thành vòng tròn xung
quanh, và chỉ sau khi mọi người đã phát biểu, nhà vua mới bắt đầu lên tiếng.
Mandela nói, công việc của nhà lãnh đạo không phải là bảo người ta làm gì mà là
để tạo được sự đồng thuận. Ông vẫn thường hay nói: "Đừng có tham gia vào
cuộc tranh luận quá sớm."
Trong suốt thời gian tôi làm việc với Mandela, ông
thường triệu tập những phiên họp những cộng sự viên thân cận tại nhà riêng ở
Houghton, một khu ngoại ô lịch sự của Johannesburg. "Nội các trong
bếp" của Mandela gồm khoảng một chục người, gồm có Ramaphosa, Thabo Mbeki
(bây giờ là Tổng thống Nam Phi sau cuộc bầu cử 1999) và những người khác, ngồi
chung quanh chiếc bàn ăn hay đôi khi ngồi thành vòng tròn ngoài sân đậu xe. Vài
người lớn tiếng đòi hỏi phải làm nhanh, quyết liệt hơn, và Mandela chỉ ngồi yên
lắng nghe. Sau khi mọi người phát biểu và ông lên tiếng, ông nói chậm rãi và
đúc kết ý kiến của từng người một cách có phương pháp và rồi thì mới cho biết ý
kiến riêng của mình, một cách khéo léo đưa đến quyết định theo ý ông muốn mà
không cần phải áp đặt. Cái khéo của thuật lãnh đạo là phải để cho chính mình
cũng được lèo lái. Mandela nói: "Điều khôn ngoan là làm sao thuyết phục
người khác làm điều mình muốn và khiến cho họ nghĩ rằng đó chính là ý kiến của
họ."
Bài học thứ tư: Hiểu rõ kẻ thù-Và tìm hiểu xem họ thích môn
thể thao nào nhất
Từ những năm trong thập niên 1960, Mandela bắt đầu
học tiếng Afrikaans,[5] ngôn ngữ của người Phi châu da trắng
(Afrikaner), những người đã tạo ra chế độ phân chủng. Đồng chí của Mandela
trong ANC vẫn thường chế diễu ông về điều này; nhưng ông muốn tìm hiểu quan
niệm và triết lý sống của người Phi da trắng là gì. Vì ông biết rằng sẽ có một
ngày ông phải hoặc là đấu tranh hoặc là đàm phán với họ, và ở trường hợp nào đi
nữa, định mệnh của cả hai dính liền với nhau.
Việc học tiếng Afrikaans đối với Mandela mang tính
chất chiến lược ở hai điểm: khi nói được tiếng của đối phương, ông có thể hiểu
được ưu điểm và nhược điểm của họ để hoạch định những chiến thuật đúng đắn.
Nhưng đồng thời ông cũng thu phục được cảm tình của đối phương. Mọi người, từ
những anh lính gác tù cho tới tổng thống P.W. Botha, đều nể phục Mandela về sự
tự nguyện học tiếng Afrikaans và lịch sử của người da trắng Afrikaner. Mandela
còn học hỏi thêm về môn bóng rugby,[6] môn thể thao được người Afrikaner
yêu chuộng, hầu có thể bàn và so sánh các đội banh và cầu thủ với những người
khác.
Mandela hiểu rằng người da đen và da trắng Phi châu
có chung một điều căn bản: Người da trắng Afrikaner tin rằng họ là người Phi
châu cũng giống như người da đen Phi châu tin họ là người Phi châu. Ông cũng
biết rằng chính những người da trắng Afrikaner cũng là nạn nhân của thành kiến:
Chính quyền nước Anh và những người di dân Anh quốc vẫn coi khinh những người
da trắng Afrikaner. Họ cũng bị mặc cảm tự ti văn hóa tương tự như những người
da đen.
Mandela là một luật sư và ở trong tù ông giúp ý kiến
cho những người cai tù về những vấn đề luật pháp. Họ là những người kém học và
bình dân hơn ông nhiều; cho nên, đối với họ sự việc một người da đen sẵn lòng
và có khả năng giúp đỡ họ là một điều phi thường. Allister Sparke, sử gia hàng
đầu của Nam Phi nói: "Những người cai tù này là điển hình cho đặc tính thô
bạo và tàn ác nhất của chế độ phân chủng, nhưng ngay cả với những phần tử tồi
tệ và thô lỗ nhất ông cũng có thể đàm phán được."
Bài học thứ năm: Giữ bạn ở gần-và giữ kẻ thù gần hơn
Có nhiều người khách được Mandela mời tới nhà riêng
ở Qunu, nơi ông lớn lên. Trong số những người này có những người Mandela thổ lộ
với tôi là không thể hoàn toàn tin được. Nhưng ông vẫn mời họ ăn cơm, gọi điện
thoại hỏi ý kiến, ca tụng và tặng quà cho họ. Mandela là người có sức hấp dẫn
mạnh mẽ và ăn nói duyên dáng, và nhờ đó đã tạo được nhiều ảnh hưởng tới đối
phương hơn là với đồng minh.
Lúc bị giam trên Đảo Robben, trong vòng những người
thân cận của Mandela luôn luôn có những người mà ông hoặc là không thích hoặc
là không hoàn toàn tin tưởng. Một người rất gần gũi với ông là Chris Hani, tham
mưu trưởng của ANC, một người rất nóng nảy. Có nhiều người cho rằng Hani đang
âm mưu hạ bệ Mandela, nhưng ông vẫn rất thân mật với Hani. Ramaphosa nói:
"Chẳng phải chỉ có Hani mà thôi. Có những tay kỹ nghệ gia giàu sụ, những
gia đình làm chủ hầm mỏ, và phe đối lập nữa. Ông ấy vẫn nhắc điện thoại gọi
chúc mừng ngày sinh nhật của họ. Ông đi thăm viếng họ trong những dịp quan hôn
tang tế. Ông ấy cho đó là những cơ hội." Khi Mandela ra khỏi tù, tiếng tăm
ông càng nổi bật hơn nữa khi bao gồm cả những người đã giam ông trong vòng
những người bạn và mời cả những người lãnh đạo đã giam giữ ông vào Nội Các đầu
tiên. Trong số những người nay có những người ông xem rất thường.
Tuy thế, cũng có lúc Mandela phủi tay trước một số
người--và cũng có lúc, như những người có sức hấp dẫn mạnh mẽ, ông để cho nguời
khác thuyết phục. Như lúc đầu Mandela đã tạo được mối quan hệ thân thiết với
tổng thống De Klerk, và đó cũng là lý do ông cảm thấy bị phản bội khi De Klerk
trở mặt đả kích ông trước công luận.
Mandela tin rằng ôm lấy đối phương là một cách để
chế ngự họ: để họ ở ngoài vòng ảnh hưởng của mình còn nguy hiểm hơn nhiều.
Mandela quý trọng sự trung thành, nhưng chưa bao giờ để cho sự trung thành trở
thành một chướng ngại trong việc dùng người. Ông vẫn thường nói, "người ta
hành động là vì quyền lợi riêng của họ." Đó chỉ là một thực tế của bản
chất con người, chứ không phải là một khuyết điểm. Mặt tiêu cực của sự lạc
quan--Mandela là một người lạc quan--là quá tin người. Nhưng ông nhận thức được
cách thức hữu hiệu nhất đối với những người ông không tin là trung lập hóa họ
bằng sức hấp dẫn của mình.
Bài học thứ sáu: Bề ngoài rất quan trọng, và luôn ghi nhớ
phải tươi cười
Khi còn là một sinh viên luật nghèo tại
Johannesburg, Mandela chỉ có một bộ đồ vest đã cũ sờn. Ông được đưa đến gặp
Walter Sisulu, một người môi giới địa ốc và cũng là một lãnh tụ trẻ của ANC. Mandela
thấy đó là một người da đen lịch lãm và thành công, một mẫu người ông muốn noi
theo. Còn Sisulu khi thấy ông thì thấy tương lai của Nam Phi.
Sisulu nói với tôi rằng trong cuộc vận động lớn lao
trong thập niên 1950 để biến ANC thành một phong trào quần chúng, thì vào một
ngày, ông vừa cười vừa kể, "một lãnh tụ quần chúng bước vào văn phòng của
tôi." Mandela là người đẹp trai, cao lớn, một võ sĩ quyền anh tài tử, đi
đứng với một phong thái vương giả như một vị hoàng tử. Và anh ta có một nụ cười
rực rỡ như ánh mặt trời ra khỏi đám mây.
Đôi khi chúng ta quên là có một mối quan hệ lịch sử
giữa người lãnh tụ và nhân dáng của họ. Khi bước vào bất cứ căn phòng nào,tổng
thống George Washington là người cao nhất và có lẽ là người to khỏe nhất. Vóc
dáng và sức mạnh có lẽ tùy thuộc nhiều vào DNA hơn là với những cẩm nang rèn
luyện lãnh tụ, nhưng Mandela hiểu được cách vận dụng phong thái của mình để đạt
mục đích đấu tranh. Là lãnh tụ của bộ phận vũ trang hoạt động mật của ANC, khi
nào cần chụp hình ông cũng đòi phải có quân phục chỉnh tề và để một hàm râu
quai nón. Trong suốt sự nghiệp chính trị ông luôn quan tâm đến cách phục sức
phù hợp với cương vị của mình. George Bizos, luật sư riêng của Mandela, nhớ lại
là lần đầu tiên gặp ông tại một tiệm may của người Ấn Độ trong thập niên 1950,
và Mandela là người Nam Phi da đen đầu tiên đi may một bộ vest. Ngày nay,
"quân phục" của Mandela là những chiếc áo sơ-mi hoa hòe rực rỡ như để
bảo với mọi người ông là một vị cha già vui vẻ của nước Nam Phi hiện đại.
Khi Mandela tranh cử chức tổng thống năm 1994, ông
hiểu là biểu tượng cũng quan trọng như thực chất. Mandela không phải là
một nhà hùng biện tài ba, người ta vẫn thường chẳng để ý gì đến điều ông nói
sau vài phút đầu tiên. Nhưng biểu tượng là điều mà người ta hiểu. Khi ra trước
diễn đàn, Mandela luôn luôn biểu diễn toyi-toyi, một điệu múa dân gian
đã được dùng làm biểu tượng của cuộc đấu tranh. Nhưng điều quan trọng hơn là nụ
cười rực rỡ, nhân bản và bao dung của Mandela. Đối với những người Phi da
trắng, nụ cười là biểu tượng của sự hỷ xả và sự cảm thông với họ. Đối với cử
tri da đen, nụ cười này là biểu tượng của một "chiến sĩ hạnh phúc và vui
vẻ" và chúng ta sẽ chiến thắng. Bích chương vận động bầu cử được ANC treo
khắp mọi nơi chỉ đơn giản có in hình gương mặt và nụ cười của Mandela.
Ramaphosa nói, "Nụ cười, chính là thông điệp của Mandela,"
Sau khi ra khỏi tù, người ta nhắc đi nhắc lại mãi là
thật là kỳ diệu khi không thấy Mandela biểu lộ sự cay đắng [về những khổ nhục
ông phải chịu đựng]. Thực ra có cả ngàn điều để ông cay đắng, nhưng ông biết
hơn ai hết là phải biểu lộ cảm xúc trái ngược với cay đắng. Ông vẫn thường nói:
"Hãy quên quá khứ đi"-- nhưng tôi biết ông bao giờ quên được.
Bài học thứ bảy: Không có gì hoàn toàn là trắng hay đen
Khi chúng tôi bắt đầu những cuộc phỏng vấn, tôi vẫn
thường hỏi ông những câu đại loại như thế này: Khi quyết định ngưng cuộc đấu
tranh vũ trang, lúc đó ông nghĩ là không có đủ sức để lật đổ chế độ hay là vì
ông biết là có thể chinh phục được dư luận quốc tế bằng con đường bất bạo động?
Lúc đó ông liếc nhìn tôi với một cái nhìn lạ lùng vì câu hỏi ngớ ngẩn ấy và
nói: "Tại sao lại không thể làm cả hai?"
Tôi đã hỏi những câu hỏi thông minh hơn, nhưng điều
ông muốn nói đã rất rõ ràng: Cuộc đời không bao giờ đóng khung trong cái
"hoặc là" thế này hay thế nọ. Những quyết định rất phức tạp, và luôn
luôn có những yếu tố cần phải cân nhắc. Đầu óc con người vẫn có khuynh hướng
tìm một sự giải thích đơn giản, nhưng lại không bao giờ phù hợp với thực tế cả.
Những điều trông thẳng như mực tàu thực ra chưa hẳn như vậy.
Sự mâu thuẫn không làm Mandela khó chịu. Trong cương
vị một chính trị gia, ông là người thực tiễn nhận thức được là thế giới có vô
vàn sắc thái rất tế nhị. Tôi tin rằng Mandela có được sự nhận thức này vì là
một người da đen phải sống dưới chế độ phân chủng, một chế độ mà hàng ngày
người da đen phải đau khổ trước những lựa chọn làm suy nhược tinh thần: Tôi có
nên làm theo ý muốn của chủ da trắng để có được việc tôi muốn làm và tránh bị
đánh đập không? Tôi có phải mang theo giấy phép đi đường không?
Trong cương vị một nhà lãnh đạo quốc gia, Mandela có
một sự trung thành khác thường với Muammar Gaddafi và Fidel Castro. Họ đã trợ
giúp ANC khi Hoa Kỳ còn cho Mandela là thành phần khủng bố. Khi tôi hỏi ông về
Gaddafi và Castro, ông nói rằng người Mỹ có thói quen nhìn vấn đề hoặc trắng
hoặc đen, và trách tôi là không nhận thức được những điều tế nhị của vấn đề.
Mỗi vấn đề đều có nhiều nguyên do. Dù thái độ chống chế độ phân chủng của ông thật
rõ ràng và không thể bàn cãi được, nhưng những nguyên nhân của sự phân chủng
thì lại phức tạp, xuất xứ từ nguồn gốc lịch sử, xã hội và cả tâm lý nữa. Sự
tính toán của Mandela luôn luôn rõ ràng: Mục đích của ta là gì và phương cách
nào thực tiễn nhất để đạt được mục đích đó?
Bài học thứ tám: Chấp nhận Bỏ cuộc cũng là lãnh đạo
Năm 1993, Mandela hỏi tôi là có biết có nước nào
trên thế giới mà tuổi tối thiểu để đi bầu dưới 18 không. Tôi tìm hiểu và trình
cho ông một danh sách những nước mà tiếng tăm không được hay ho cho lắm. Những
nước này gồm có: Nam Dương, Cuba, Nicaragua, Bắc Hàn, và Iran. Ông gật đầu tỏ ý
hài lòng và khen "tốt lắm, tốt lắm." Hai tuần sau Mandela lên đài
truyền hình Nam Phi và đề nghị hạ thấp tuổi đi bầu xuống còn 14. Ramaphosa nhớ
lại: "Ổng cố vận động chúng tôi ủng hộ ý kiến đó, nhưng rút cuộc chỉ có
mình ổng thôi. Và Mandela chấp nhận thực tế là ý kiến này không được chấp nhận,
và chấp nhận sự thất bại một cách khiêm tốn chứ không tỏ vẻ giận dỗi gì hết. Đó
cũng là một bài học về lãnh đạo."
Biết cách từ bỏ một ý tưởng, một công tác hay mối
quan hệ đã bị hỏng thường là loại quyết định khó nhất mà người lãnh đạo phải
chọn. Về nhiều phương diện, di sản lớn nhất mà Mandela để lại trong cương vị
Tổng thống Nam Phi là cách ông đã chọn khi mãn nhiệm kỳ. Khi đắc cử vào năm
1994, Mandela có thể làm tổng thống suốt đời--nhiều người còn cho rằng đó là
điều tối thiểu nước Nam Phi có thể làm để đền bù cho những năm ông chịu tù đày.
Trong lịch sử cả Phi châu, chỉ có một số nhỏ đếm
trên đầu ngón tay những nhà lãnh đạo được dân bầu là chịu đi xuống khi hết
nhiệm kỳ. Mandela cương quyết là sẽ tạo ra tiền lệ cho những người đi sau-không
phải chỉ ở Nam Phi mà còn ở khắp Châu Phi. Ông là nhân vật phản diện của
Mugabe,[7] ông
là người đã khai sinh ra đất nước nhưng từ chối nắm giữ đất nước làm con tin
của mình. Ramaphosa nói: "Nhiệm vụ của ông là vạch ra con đường, chứ không
phải là người lèo lái con tàu." Ông cũng biết rằng người lãnh tụ qua những
việc mà họ quyết định không làm cũng thể hiện sự lãnh đạo giống như qua những
việc họ quyết định làm.
Nói tóm lại, bí quyết để hiểu được Mandela nằm ở 27
năm ông chịu tù đày. Người thanh niên bước chân lên Đảo Robben năm 1964 là một
người đầy tình cảm, bướng bỉnh, và dễ dàng nổi nóng. Người đàn ông bước ra khỏi
nhà tù là một người trầm tĩnh và tự chế. Mandela không bao giờ và chưa bao giờ
là người tự quan sát nội tâm của mình. Tôi thường hỏi ông là người đàn ông bước
chân ra khỏi tù khác với người thanh niên bướng bỉnh khi bước chân vào tù như
thế nào. Mandela ghét câu hỏi này lắm. Mãi cho đến một ngày kia ông mới nói:
"Khi bước ra, tôi đã trưởng thành." Không có điều gì hiếm hoi và quý
báu cho bằng một người đàn ông trưởng thành.
Chúc Mừng Sinh Nhật, Madiba.
© Học Viện Công Dân 2012.
[1] Xhosa là một bộ lạc của tổ
tiên của Nelson Mandela, bộ lạc này sinh sống tại vùng phía đông-nam của
nước Nam Phi.
[3] Rivonia thuộc ngoại ô của
Johannesberg (thủ đô của Nam Phi), nơi diễn ra vụ xử án 10 nhà lãnh đạo Hội
nghị Toàn quốc Phi Châu, năm 1963-1964. Nelson Mandela là một trong 10 người
này và bị kết án tù chung thân, thay vì bản án tử hình vì bị thế giới lên án và
can thiệp.
[4] Đảo Robben nằm ở phía tây
của Cape Town, cách bờ khoảng 7 km. Nhà tù này cũng nổi tiếng như Côn Đảo của
VN hay Alcatraz của Mỹ.
[5] Afrikaans, tạm dịch là tiếng
Nam Phi, là một ngôn ngữ thuộc miền tây nước Đức và là ngôn ngữ chính của hai
nước Nam Phi và Namibia. 95% ngữ vựng là tiếng Đức-Hà Lan vì ngôn ngữ này được
hình thành từ thổ ngữ Hà Lan thuộc thế kỷ 17. Số ngữ vựng còn lại thuộc nhiều
ngôn ngữ khác nhau như Mã Lai, Bồ-đào-nha, Bantu và Khoisan.
[6] Rugby là môn bóng hình bầu
dục, một trong những môn thể thao được ưa chuộng nhất tại Anh và những nước
thuộc ảnh hưởng của Anh. Môn bóng này cũng tương tự như môn football của Mỹ.
[7] Mugabe, năm nay 87 tuổi, là
tổng thống của Zimbawe đã cầm quyền 28 năm và không chịu từ bỏ quyền lực dù bị
thua trong cuộc bầu cử năm 2009.
No comments:
Post a Comment