Trong suốt 2 cuộc chiến tranh chống Pháp từ 1945 tới
1954 với kết quả là đất nước bị chia đôi, CSVN chiếm miền Bắc của vĩ tuyến 17
và xâm chiếm miền Nam từ 1954 tới 1975 để áp đặt chủ nghĩa sắt máu lên toàn quê
hương, đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh đã dựa hoàn toàn vào sự giúp đỡ của khối
Cộng, nhứt là của Trung Cộng. Hậu quả là bây giờ dân Việt đang phải trả nợ
những sự giúp đỡ đó bằng chính quê hương của mình.
Trong quá khứ, người Việt luôn luôn phải đối đầu với
người Tầu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Các nhóm Bách Việt, khởi
thủy ở miền Nam Trung Hoa, bị người Tầu đồng hóa. Chỉ còn có nhóm Lạc Việt tồn
tại, đến định cư ở miền Châu thổ sông Hồng Hà để lập nên nước Việt. Kể từ lúc
lập quốc tại châu thổ sông Hồng Hà, dân Việt phải luôn đối phó với ý đồ xâm
lăng, đồng hóa của người Tầu từ phương Bắc.
Người Tầu đã đô hộ Việt Nam trong nhiều năm:
- Từ năm 111 trước Tây Lịch cho đến năm 931 sau Tây
Lịch (hơn 1 ngàn năm).
- Từ năm 1407 tới năm 1428. Vua Lê Lợi- người anh
hùng áo vải đất Lam Sơn- đã đứng lên đánh đuổi quân Tầu, dành độc lập cho nước
nhà.
Người Việt đã không bị đồng hóa mặc dù bị Tầu cai
trị trong ngần ấy năm.
Ý tưởng xâm chiếm VN, cũng như xâm chiếm các nước
nhỏ ở chung quanh như Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương... lúc nào cũng tiềm tàng
trong trí óc người Tầu. Nhận viện trợ của Trung Cộng trong 2 cuộc chiến, Hồ Chí
Minh và đám đồng chí không hiểu ý định thâm hiểm sâu xa của Trung Cộng hay Hồ
và đám CSVN cố tình không hiểu, miễn sao áp đặt cho được chế độ CS lên quê
hương; cứu cánh biện minh cho phương tiện là lý luận của Hồ và những người
CSVN.
Trong sách Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản
Trung Quốc do chính Mao Trạch Đông biên soạn năm 1938 có đoạn viết:
(Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các
nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một phần lãnh thổ của Trung
Quốc:
- Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo
Bành Hồ và Lữ Thuận.
- Anh chiếm Miến Điện, Bu Tan, Mã Lai và Hương Cảng.
- Pháp chiếm An Nam.)
Bản đồ sau đây được in trong cuốn sách Sơ lược lịch
sử Trung Quốc hiện đại được xuất bản tại Bắc Kinh năm 1954. Trên bản đồ, đường
chấm bao gồm lãnh thổ Trung Hoa trong đó có các nước Việt Nam, Mã Lai, Thái Lan
và Triều Tiên.
Trong cuộc chiến xâm lược Miền Nam Việt Nam của CSVN
từ miền Bắc từ năm 1954 tới năm 1975, người ta đã nhận ra giao hảo giữa VNCS và
Trung Cộng đã có nhiều dấu hiệu của một sự đổ vỡ không hàn gắn được. Sau năm
1975, người ta mới biết Trung Cộng không bao giờ muốn CSVN đánh chiếm Miền Nam.
Sau khi CSVN thành công trong công cuộc thống nhất VN bằng võ lực, mối bất đồng
càng ngày càng lộ rõ. Sau khi Lê Duẩn đi Nga Sô ký hiệp ước hỗ tương quân sự và
nhứt là sau khi VNCS đưa quân đội tràn qua chiếm Campuchia, lật đổ Chính Phủ CS
của Polpot vào năm 1978, Trung Cộng đình chỉ các viện trợ cho VN, đồng thời rút
hết các chuyên viên về nước. Lãnh tụ Trung Cộng Đặng Tiểu Bình luôn luôn lớn
tiếng đe dọa: Trung Hoa Cộng Sản sẽ phải dậy cho Việt Nam một bài học.
Mặt trận trải dài khắp biên giới Việt-Trung
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, hơn 300 000 quân Trung
cộng đồng loạt tấn công VN ở dọc vùng biên giới giữa hai nước, trên một mặt
trận trải dài khắp vùng biên giới. Phía Việt Nam bị bất ngờ nên chỉ có bộ đội
địa phương được đưa ra để đối đầu với quân Trung Cộng. Các đơn vị quân chánh
qui của VN Cộng Sản còn đang bị kẹt ở mặt trận Cao Miên. Người ta đặt dấu hỏi
quân báo của CSVN ở đâu mà không phát hiện quân Tầu tập trung, không phải vài
ngàn, mà là hơn 300 000 quân với đại pháo, xe bọc sắt ở vùng biên giới giữa hai
nước.
Trung Cộng gọi đây là cuộc trừng phạt, để dạy
cho kẻ bất nghĩa Việt Nam một bài học. Quân TC tràn sang VN với tiêu
lệnh: giết sạch, phá sạch. Dù chỉ có các du kích và quân địa
phương, phía VN đã dũng cảm đối đầu với quân Trung Cộng. Hai bên cùng bị thiệt
hại nặng. Quả là một bài học bằng xương máu của hàng trăm ngàn người ở cả hai
nước. Máy bay của Nga Sô đã không vận các đơn vị chánh qui của CSVN từ
Campuchia về. Một phòng tuyến được thiết lập để bảo vệ Thủ đô Hà Nội gọi là
Phòng Tuyến Sông Cầu nhưng ngày 18 tháng 3 năm 1979, Quân Tầu tự ý rút về sau
khi đã diệt hết dân lành, phá tan tành mấy tỉnh miền biên giới như Lạng Sơn,
Cao Bằng. Lào Kai và một số tỉnh ở sát biên giới. Cả 2 bên đều tuyên bố là mình
thắng trận.
Từ năm 1979 cho mãi tới năm 1990, cuộc xung đột biên
giới mới chấm dứt.
Kể từ 1979 đến năm 1990, có ít nhứt 6 cuộc giao
tranh lớn ở vùng biên giới. Trận chiến núi Lão Sơn là một trận mà chiến địa đổi
chủ nhiều lần với hàng ngàn binh sĩ hai bên bị giết. Sau chiến tranh biên giới
năm 1979, Trung Cộng đã nhận ra sự yếu kém của Hồng Quân Trung Hoa nên họ đã ra
sức canh tân, hiện đại hóa quân đội.
Sau trận chiến biên giới năm 1979, các trận đấu võ
miệng trên các phương tiện truyền thông của cả hai bên được tận dụng. Năm 1979,
nhà xuất bản Sự Thực của Cộng sản Việt Nam ấn hành sách Vấn đề biên giới
giữa Việt Nam và Trung quốc nhằm vạch trần âm mưu của chủ nghĩa bá
quyền Trung quốc. Theo tập tài liệu này: (những dòng in nghiêng sau đây là
nguyên văn được trích từ tập tài liệu này).
- Năm 1954, họ (TC) những người lãnh đạo Trung Quốc
đã lợi dụng tình để thương lượng riêng với Pháp và cùng nhau thỏa hiệp về một
giải pháp có lợi cho họ và Pháp. Không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân
Lào và nhân dân Campuchia.
- Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, lần đầu tiên, được
ngồi ngang hàng với 4 cường quốc, Ủy Viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc (nhờ chiến tranh ở Việt Nam).
- Nhà cầm quyền Bắc Kinh muốn duy trì lâu dài tình
trạng Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên cứu
nước và càng ngày càng dành được nhiều thắng lợi.
- Năm 1974, với sự đồng ý ngầm của Hoa Kỳ, họ đã
chiếm quần đảo Hoàng Sa. (LNV: Thực ra CS Việt Nam đã
tránh không nhắc tới Công Hàm gửi Châu Ân Lai của Phạm Văn Đồng năm 1958, xác
nhận chủ quyền của Trung Cộng trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.)
- Chính sách ngày nay của các nhà lãnh đạo Trung
quốc đối với Việt Nam, mặc dù được ngụy trang khéo léo như thế nào vẫn chỉ là
các chính sách của Hoàng Đế Thiên Triều trong mấy ngàn năm qua, nhằm thôn tính
Việt Nam.
-
Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ 1954 tới nay:
* Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm: điển hình là
khu vực Trịnh Tường tại tỉnh Quảng Ninh.
* Lợi dụng các công trình xây cất hữu nghị để đẩy
lùi cột biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam...
* Năm 1955 khi làm lại đường sắt tại khu Hữu Nghị
quan, họ đã dời đường sắt vào sâu ở phía Việt Nam 300 mètres.
* Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới,
lấn sang Việt Nam.
* Mượn đất của Việt Nam để sinh hoạt sau biến thành
lãnh thổ Trung Quốc.
* Xê dịch các mốc để sửa đổi đường biên giới.
* Làm đường biên giới lấn sang phía Việt Nam.
* Lợi dụng việc giúp Việt Nam vẽ bản đồ để chuyển
dịch đường biên giới.
* Dùng lực lượng vũ trang để uy hiếp và đóng chốt để
chiếm đất.
* Chiếm Hoàng Sa và Trường Sa.
-
Trong cuộc chiến thống nhất đất nước 1954-1975, Trung Quốc luôn luôn tìm cách
cản trở Việt Nam:
* Thời kỳ 1954-1964, Trung Quốc ngăn cản nhân dân
Việt Nam đấu tranh để thống nhất đất nước.
* Thời kỳ 1965-1969: làm yếu và kéo dài cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam.
* Thời kỳ 1969-1973: đàm phán với Mỹ trên lưng nhân
dân VN.
* Thời kỳ 1973-1975:cản trở nhân dân Việt Nam hoàn
toàn giải phóng miền Nam.
-
Sau năm 1975 Trung Quốc tiếp tục chính sách gây khó khăn cho Việt Nam như:
* Chính sách Nạn kiều.
* Các áp lực về kinh tế, chính trị.
Trong 30 năm vừa qua, những người lãnh đạo Trung
Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến
lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, Việt Nam phải là
nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc... Chính
sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong
chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam Á Châu...
Tóm lại trong 30 năm vừa qua, những người cầm quyền
ở Trung Quốc đã 3 lần phản bội Việt Nam:
1- Tại hội nghị Gơ ne vơ năm 1954 họ đã bán rẻ lợi
ích dân tộc của nhân dân Việt Nam, không những để bảo đảm cho nước họ một vành
đai an ninh ở phía Nam, mà còn đ‹ chuẩn bị địa bàn cho việc thực hiện mưu đồ
bành trướng ở Đông Dương và Đông Nam Á. Họ muốn duy trì tình trạng Việt Nam bị
chia cắt lâu dài, hòng làm cho Việt Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào Trung
Quốc.
2- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân Việt Nam, khi chế độ Ngô Đình Diệm bị suy đổ thì họ bật đèn xanh cho Mỹ ném
bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền Nam Việt
Nam.
3- Sau khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn
miền Nam khỏi ách thống trị thực dân mới của Đế quốc Mỹ và thống nhứt nước nhà,
họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị, kinh tế, ngoại giao để làm suy yếu nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, tiến đến dùng
lực lượng quân sự của bè lũ tay sai Pôn Pốt- Iêng Xa-ry xâm lược Việt Nam ở
phía Tây Nam và lực lượng quân sự của Trung Quốc trực tiếp xâm lược Việt Nam ở
phía Bắc, giết hại nhân dân Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ sở kinh tế,
văn hóa của Việt Nam ở các vùng có chiến sự.
Ba lần họ phản bội Việt Nam, lần sau độc ác, bẩn
thỉu hơn lần trước.
...Để che giấu bộ mặt phản bội của họ, những người
cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến việc Trung Cộng viện trợ cho nước Việt
Nam, thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ.
Thực là cạn tầu ráo máng giữa 2 đồng chí đã từng một
thuở keo sơn.
Phía Trung Cộng cũng không chịu kém. Qua chương
trình Việt Ngữ của Đài Phát thanh Bắc Kinh, Trung Cộng đã tố cáo giới lãnh đạo
Cộng Sản Việt Nam là phản trắc, côn đồ, vong ơn, "ăn cháo đái bát".
Họ trưng những tài liệu, chứng cớ về những "hy sinh" của Trung Quốc
đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam từ thời chống Pháp năm 1946, cho tới năm 1975.
Sau trận chiến tranh biên giới năm 1979, Trung Cộng
đã nhận ra những yếu kém của Giải phóng Quân nên đã bỏ rất nhiều tiền để canh
tân và phát triển quân đội, kiện toàn Hải Lục Không Quân. Thí dụ về Hải Quân,
Trung Cộng trở nên hùng mạnh ở Thái Bình Dương, chỉ thua Hải Quân Hoa Kỳ. Trung
Cộng đã trở thành 1 cường quốc về kinh tế, về quân sự khác hẳn Trung Cộng 30
năm về trước.
Trung Cộng đang hung hăng tại Biển Đông. Họ đã chiếm
quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trương Sa của Việt Nam.
Năm 1991, Chủ nghĩa Cộng Sản cáo chung, các nước
Đông Âu được tự do. Ngay tại Nga Sô, cái nôi của cách mạng Cộng Sản, chủ nghĩa
Mác Lê cũng bị vất vào sọt rác. Nhân loại chỉ còn 4 nước vẫn còn bị dưới ách
chế độ Cộng Sản là Trung Hoa, Cuba, Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Trung Cộng mặc
nhiên trở nên nước Cộng Sản "xếp sòng" trong 4 nước Cộng Sản còn lại.
Việt Nam Cộng Sản mất chỗ dựa, mất đi "bầu sữa Liên Sô" nên trở nên
"mồ côi" bơ vơ.
Các đỉnh cao trí tuệ loài người của Đảng Cộng Sản
Việt Nam tại Hà Nội, để sống còn, quyết định dựa vào Trung Cộng. Họ cố gắng tìm
cách cải thiện bang giao giữa 2 nước. Nhưng gương vỡ làm sao lành bây giờ!
Trung Cộng trở nên rất dè dặt đối với Việt Nam, đứa em bất nghĩa vong ân. Các
lãnh đạo của CSVN như Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu...
lần lượt sang Bắc Kinh để cầu khẩn Trung Cộng nối lại tình xưa. Trung Cộng đã
lợi dụng thế thượng phong để ép các đầu sỏ VNCS ký những hiệp định hoàn toàn
bất lợi cho quê hương VN. Các nhà lãnh đạo CSVN cứ nhắm mắt tuân lời quan thầy
Trung Cộng nên dấu kín nhân dân Việt Nam những thỏa thuận bán nước này.
Mối giao tình không còn thắm thiết như thuở nào.
Trung Cộng không ngừng tạo sức ép, gây áp lực trên Việt Nam về mọi phương diện.
-
Về kinh tế, hàng hóa của Trung Cộng đang tràn ngập Việt Nam,
phá hoại nền kinh tế của Việt Nam. Trung Hoa là nước đứng đầu trong các trao
đổi mậu dịch thương mại với VN. Từ 210 triệu dollars năm 2001, năm 2012 đã đạt
mức 16 tỷ dollars năm 2012. Thủ Tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường nói tới con số
dự trù là 60 tỷ dollars cho năm 2015 để rồi đạt mức 100 tỷ dollars năm 2017.
Cán cân thương mại luôn luôn nghiêng về phía Trung Cộng. Ngoài ra hàng lậu đến
từ Tầu qua ngả biên giới đang tràn ngập VN. Trong đó ta phải kể đến các hàng
hóa độc hại, hư thối cho người tiêu thụ. Trung Cộng đang hoặc thu mua hoặc thuê
hàng ngàn ngàn mẫu đất của VN với giá thực rẻ. Người Tầu được tự do sang Việt
Nam làm ăn, không cần Visa; đó là một mối nguy cho tiền đồ dân tộc.
-
Về quân sự, Hải quân Trung Cộng đã hoàn toàn chiếm cứ biển
Đông. Hải Quân của Cộng Sản Hà Nội đã đụng độ vớ Hải Quân Trung Quốc nhiều lần,
đều bị thảm bại. Điển hình là trận Hải chiến năm 1998. Trung Cộng đã cấm ngư
dân Việt Nam đi đánh cá ở Biển Đông. Họ cho rằng biển Đông thuộc về họ. Ngư dân
Việt Nam đã bị họ bắt, giết. Ngư thuyền bị tịch thu.
Chánh phủ Việt Nam Cộng Sản của các đỉnh cao trí tuệ
loài người tại Hà Nội im lặng làm ngơ.
Thỉnh thoảng TC cho phát tán lên Internet những lời
tố cáo VNCS là những kẻ vô ơn hoặc những ý đồ chinh phục VN bằng quân sự trong
30 ngày để chiếm trọn VN. Tất cả những hăm dọa đó có ẩn ý là tạo một trạng thái
tinh thần bất ổn trong hàng ngũ dân Việt. Sau những trận chiến biên giới, kéo
dài từ năm 1979 tới năm 1990, TC hiểu rõ việc chinh phục VN bằng võ lực - như
cha ông của họ đã từng làm - không còn thích hợp cho chính sách xâm lấn của của
họ nữa, họ nhắm chinh phục VN bằng các phương tiện khác. Quân sự chỉ là con
ngáo ộp thôi.
-
Về chính trị, Trung Cộng đã ép các
nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam ký những hiệp định nhượng đất, nhượng biển cho
họ. Thí dụ những Hiệp định do Lê Khả Phiêu ký năm 1999, năm 2000, cùng những
thỏa thuận cắm mốt biên giới. Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc đã thuộc về Trung Cộng.
Kiều Công Tiễn thời Ngô, Trần Ích Tắc thời Trần, Lê Chiêu Thống đời Nhà Lê là
những kẻ bán nước nhưng học chỉ là những tên phản quốc lẻ loi. Giờ đây, dân
Việt bị cả một tập đoàn Cộng Sản phản quốc gồm 16 tên trong Bộ Chánh Trị, gần
500 tên Ủy Viên trong Trung Ương Đảng, 3 triệu đảng viên đang bán rẻ quê hương
cho kẻ thù truyền kiếp như Kiều Công Tiễn, Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc... đã
làm.
-
Người Tầu đã vào Tây Nguyên, gọi là để khai
thác Bau xít. Họ vào với con số hàng chục ngàn người. Tây Nguyên, xương sống
chiến lược của đất nước, đã bị người Tầu chiếm đóng. Ngoài ra người Tầu đã sang
định cư vĩnh viễn ở VN. Các phố Tầu đã mọc lên tại các tỉnh như ở Bình Dương, ở
Lạng Sơn... Cư dân Tầu ở các khu người Tầu đều coi thường Luật Pháp của Việt
Nam, họ hành xử theo luật pháp do chính họ đặt ra.
-
Trong việc giao thiệp với Việt Nam, Trung Cộng luôn
luôn giữ thế trịch thượng. Các lãnh tụ của Cộng Sản Việt Nam như Nguyễn Minh
Triết, Nguyễn Tấn Dũng đều phải sang Tầu để triều kiến. Nhà cầm quyền Cộng Sản
Việt Nam, theo lời đòi hỏi của Trung Cộng, đã cấm các cuộc biểu tình tự phát
của dân Việt phản đối việc xâm lăng của Trung Cộng. Các người biểu tình bị đàn
áp và bắt giam. Thậm chí những bài viết online chống Trung Cộng cũng bị Trung
Cộng ra lệnh cho Cộng sản Việt Nam cấm đoán.
Người Việt bi quan, lo sợ trước viễn ảnh đất nước
đang bị Trung Cộng cưỡng chiếm từ từ để thực hiện cho được nguyện ước của Mao
Trạch Đông. Mới đây, người ta đọc trên Internet một tài liệu nói là tài liệu
của Tình báo Trung Quốc nói về sự cam kết của hai ông Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh
là hai Cựu Tổng Bí Thư của Đảng CSVN về sự sát nhập Việt Nam vào Trung Hoa vĩ
đại. Sự sát nhập này sẽ được tiến hành làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 từ năm 2000 tới năm 2020. Trong giai
đoạn này VN sẽ giải quyết các bất đồng trong nội bộ.
- Giai đoạn 2, từ năm 2020 tới năm 2050. VN sẽ hoàn
toàn trở về với đất Mẹ (?), Trung Quốc. Nước VN sẽ biến mất trên bản đồ thế
giới.
Hư thực ra sao? Ta không rõ nhưng hơn lúc nào hết,
viễn tượng mất nước đang đè nặng trên tâm tư của con cháu Lạc Hồng tại khắp nơi
trên thế giới.
Chúng ta cần một Hội nghị Diên Hồng. Không biết
những người Cộng Sản Việt Nam có ý thức được là họ đang làm mất quê hương
không?
Montréal 12-2013
-------------------------------------
vietvungvinh - Uploaded
on Dec 14, 2010
bebeliem - Published
on Jul 15, 2013
cấy chân mày nữ
ReplyDeletecay chan may nu
phun mày tán bột
phun may tan bot
phun mày tán bột ở đâu đẹp
phun may tan bot o dau dep
điêu khắc lông mày ở đâu đẹp
dieu khac long may o dau dep
lam dep tai anh thu
lam dep tai spa anh thu