MICHEL TAURIAC và
Viet Nam, le dossier noir du
Communisme
Minh Võ
Saturday, April 01 2006 @ 01:13 PM EST
Minh
Võ
Chương
22 :
MICHEL
TAURIAC và
Viet Nam, le dossier noir du Communisme
Cuốn Le Livre Noir du communisme – Crimes,
terreur, répression do 6 tác giả biên soạn, phát hành năm 1997 tại Paris
chỉ dành vỏn vẹn 11 trang ghi về Cộng Sản Việt Nam trên tổng số hơn 800 trang.
Có lẽ đây là một trong những lý do thúc đẩy Michel Tauriac, nhà văn và nhà báo
nổi tiếng của Pháp viết tác phẩm Viet Nam, le dossier noir du communisme de
1945 à nos jours – Hồ Sơ Đen Việt Cộng, tựa đề Việt ngữ do chính tác giả
dịch.(1)
Michel Tauriac là một tác giả Pháp biết rất nhiều về
Việt Nam và coi Việt Nam như quê hương thứ hai. Việt Nam đã là nguồn cảm hứng
cho nhiều tác phẩm của tác giả như Jade, La Tunique de soie, La Nuit Du Tết...
Hầu hết tác phẩm của Michel Tauriac là sáng tác và đã có 3 tác phẩm được giải
thưởng văn học.
Viêt Nam, le dossier noir du communisme là tác phẩm thứ 20 của tác giả. Trong tác phẩm này, Michel Tauriac trưng
dẫn hàng trăm tác giả và nhân chứng để thiết lập một hồ sơ Cộng Sản Việt Nam về
mọi mặt: sinh mạng, tài sản, sự đói khổ, sự mất tự do của dân chúng bên cạnh sự
lộng hành, đàn áp, tham nhũng, sa đọa… của các cấp lãnh đạo đảng và chính quyền
tại Việt Nam với điểm nổi bật là trách nhiệm trực tiếp của Hồ Chí Minh trước
thực trạng trên. Tác giả mở đầu cuốn sách 20 chương, dày 260 trang bằng câu: "Ngày
ấy các bạn Việt Nam của tôi đã khóc. Họ đã khóc, kể cả những người không khóc
vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi Sài Gòn đầu hàng.”
Ngày mà tác giả nhắc ở đây là ngày 30-4-2000, một
phần tư thế kỷ sau ngày Sài Gòn thất thủ. Tauriac nói rằng những người bạn Việt
Nam của tác giả đã khóc vì những đau khổ triền miên mà nhân dân Việt Nam phải
chịu đựng trong thời gian qua, trong khi đáng lý họ phải được hưởng hòa bình
hạnh phúc.
Tác giả nhấn mạnh là đã có những người không khóc
hoặc còn cười vui trong ngày 30-4-1975, nhưng tới ngày 30-4-2000 thì không ai
kìm nổi nước mắt vì sau một phần tư thế kỷ, tất cả đã thấy rõ cảnh sống ác
nghiệt lầm than tận cùng của người dân Việt Nam dưới chế độ chuyên chế cực
quyền cộng sản.
Nói về sức chịu đựng vô bờ của người dân Việt Nam
trước đói nghèo, bệnh tật, khổ nhục, đau thương, chết chóc… tác giả viết: Người
Việt Nam có một nghệ thuật và cách thức tài tình để che giấu sự khốn cùng của
mình trong chiếc mặt nạ tươi rói.
Dù coi Việt Nam là quê hương thứ hai, Tauriac vẫn
chưa vượt nổi cảm quan của người đứng bên ngoài nên đã nghĩ cách biểu lộ đó là
cái tài của người dân. Một người Việt Nam sống trong lòng chế độ Cộng Sản hơn
nửa đời người là nhà báo Việt Thường thì cho rằng chế độ đã biến người dân
thành nô lệ, bảo cười phải cười, bảo khóc phải khóc. Đón rước khách nước ngoài
thì mọi người phải nhất trí nhe răng cười, nhất trí vẫy cờ; nhất
trí hô khẩu hiệu; đi đứng hàng ngũ chỉnh tề như lính diễn hành. Việt Thường
viết: "Chỉ có một tập hợp những nô lệ mới nhất trí trong mọi biểu lộ mà
chủ nô quy định.”
Trong chương ba, Michel Tauriac trích lời nhà văn
Nga Alexander Solzhenitsyn nói trên đài truyền hình Pháp Quốc số 2, ngày
10-4-1975, đúng 20 ngày trước khi cộng quân chiếm Sài Gòn tiên đoán “Việt
Nam sẽ trở thành một nhà tù rộng mênh mông”. (2)
Tauriac nhắc tới nhiều chứng nhân để bác bỏ con số
50 ngàn tù do Hà Nội nêu ra và ghi lại con số tối thiểu được các chứng nhân ước
lượng năm 1978 là 800 ngàn trên tổng số 20 triệu dân của miền Nam bị tống vào
các trại cải tạo.
Tauriac viết: “Tại miền Nam Việt Nam, nơi mà cứ
một gia đình ba người, cách này hay cách khác, đều phải liên hệ đến việc học
tập cải tạo cho dù chỉ trong một tháng thôi cũng đủ cho những người dễ tin nhất
hiểu rằng thứ chính trị gọi là khoan hồng chỉ là một cái kế”. (3)
Về đời sống trong tù, Tauriac ghi lại ... “70
hoặc 80 người bị nhét vào một xà lim dành cho 20 người với một cái lỗ đào
dưới đất để tiểu tiện, một chút nước với chút gạo đỏ trộn sạn làm thức ăn, nước
uống nhiễm độc và rất hiếm hoi, không thuốc men, không một tấm mền che gió bấc
lạnh thấu xương ở vài vùng, không thư từ, không thăm viếng ...
Việc lao động khổ sai bất kể tuổi tác (nhiều khi cải
tạo già hơn 70 tuổi) dưới mặt trời thiêu đốt hay trong gió mùa khốc liệt...
không khác trại trừng giới Xô Viết từng được mô tả trong L’Etat criminel (của
Yves Ternon) ...
Kẻ hành hạ “không cần nghe nạn nhân giải thích lý do
hành động của mình, cũng không cần nêu bất kỳ lý do nào để cho nạn nhân biết
tại sao họ bị giết”. Tại Việt Nam, cán bộ tuyên bố với tù nhân là mình được đào
tạo để trừng trị cặn bã của xã hội tư bản bằng cách tận diệt chúng... Đảng đã ra lệnh như thế. Đây chỉ là vấn đề bổn phận”. (4)
Những nạn nhân thoát khỏi nhà tù sau một thời gian
nào đó cũng không thể gọi là đã trở về với cuộc sống bình thường.
Bởi vì, ngoài đủ thứ bệnh nan y mà đời sống ngục tù
gieo vào thân xác họ, còn là cảnh ngộ bơ vơ, không có một phương tiện nào để
sinh sống. Gia đình họ đã bỏ trốn bằng tàu hay đã bị lột sạch của cải, nhà cửa
trong lúc họ nằm trong trại cải tạo.
Michel Tauriac kể lại trường hợp chính ông đã gặp
trên đường phố Sài Gòn: “Tôi còn nhớ mãi về Phạm mà tôi gặp khi ông ta ngồi
trên vỉa hè Sài Gòn với chiếc cân cá nhân đặt trước mặt. Đó là đồ nghề kiếm
sống của ông ta. Gầy nhom, lưng khòm, da cháy nắng, mắt kéo mây ngầu đục. Một
lão già. Nhưng chỉ mới vừa bốn mươi tám tuổi. Cựu đại úy pháo binh, mười một
năm cải tạo. Khi về nhà, không còn vợ con. Họ đã vượt biên trên một chiếc bè và
biệt vô âm tín. Không còn mái nhà, không còn đời sống. Tìm được chiếc cân dưới
đống lá trong khu vườn hoang của một căn nhà đổ nát là phép lạ. Tôi còn nhớ mãi
nụ cười tội nghiệp của ông ta khi tôi nhận lời đặt chân lên chiếc cân ... để
cân cái thân hình nuôi dưỡng đầy đủ và hạnh phúc của một nhân chứng hoàn toàn
bất lực ...
Những người như thế đầy rẫy ở Sài Gòn mười lăm năm
sau “ngày giải phóng”. Họ nằm sát nhau trên các bến của con sông cùng với những
người vừa trốn khỏi các “vùng kinh tế mới”... Thỉnh
thoảng, người ta đẩy ra một hoặc hai người cuộn tròn trong chiếc chiếu, đặt lên
một chiếc xích lô thường do một “cựu cải tạo” như họ để chở họ đi một chuyến
cuối cùng” (5)
Nhưng bệnh hoạn, lang thang, đói khổ vẫn chưa phải
là điều đáng kể. Bao trùm lên cuộc sống của những người này là cái thân phận đã
bị đóng dấu ngụy quân, ngụy quyền hoặc phản cách mạng... để phải co ro sau
những bức màn sắt vô hình thường xuyên đe dọa từng cử chỉ, lời nói và bất kỳ
lúc nào cũng có thể bị tống trở lại nhà tù. Michel Tauriac đã không giấu nổi
cảm giác chua chát khi nhắc tới một điều vẫn được nghe thấy từ cửa miệng nhiều
người: “Nếu Hồ Chí Minh còn sống ...”
Michel Tauriac nhắc lại ý nghĩ của cựu đại tá Cộng
Sản Bùi Tín là người đã thấy rõ mặt trái lừa đảo của chế độ nên phải bỏ gia
đình thân thích trốn đi, nhưng ngay tại Paris vẫn chưa hết thắc mắc “nếu Hồ
Chí Minh còn sống tới năm 1975, có thể sẽ không có các trại cải tạo?”
Michel Tauriac đã nêu một loạt tài liệu để xác quyết
trên thực tế, người phát minh ra các trại cải tạo chính là Hồ Chí Minh chứ
không phải ai khác.
Chương tiếp nối, tác giả nhắc lại cuộc gặp gỡ Nguyễn
Thị Bình tại Paris năm 1973. Thuở đó, Nguyễn Thị Bình với tư cách Bộ Trưởng
Ngoại Giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam đã khẳng định với tác giả: “Không,
thưa ông, tôi không phải Cộng Sản”. Theo tác giả tháng 4-1959, khi lên nắm
quyền tại Cuba, Fidel Castro cũng tuyên bố với một nhà báo Mỹ: “Tôi nói một
cách rõ ràng và khẳng định là chúng tôi không phải Cộng Sản”.
Tác giả nhắc thêm nhiều sự kiện và lời tuyên bố của
từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng... tới những thủ hạ cấp thấp như Nguyễn Khắc Viện
để xác định nói dối là thuộc tính của Cộng Sản. Trên thực tế, khi cần
che giấu thì họ phủ nhận tính chất Cộng Sản, khi không cần hoặc không thể che
giấu thì họ dùng lời lẽ tốt đẹp tô điểm cho Cộng Sản những màu sắc tuyệt vời
nhất chẳng hạn tờ Độc Lập của Việt Minh số ra ngày 2-9-1945 nói Hồ Chí
Minh thuộc một tổ chức cách mạng quốc gia, trong khi tờ Nhân Dân xuất bản tại Hà
Nội ngày 27-1-1955 cho biết “Hồ Chủ Tịch tuyên bố đảng cộng sản chẳng những
không loại trừ tôn giáo mà còn bảo vệ nó .”
Hồ Chí Minh thuộc tổ chức quốc gia nào không còn là
vấn đề cần bàn nên nơi chương 14, tác giả trưng dẫn tác phẩm Le temps des
chiens muets của giám mục Paul Seitz, vị giám mục Pháp cuối cùng tại Việt
Nam để mọi người thấy rõ cách bảo vệ tôn giáo của Hồ Chí Minh là quốc hữu hóa
các chủng viện, chỉ định cư trú cho các linh mục, tống vào nhà tù một số với
tội danh gián điệp, phản quốc, trong khi một số khác bị bắt cóc, thủ tiêu và
ngăn cấm giáo dân tới các giáo đường ... Tác giả cũng ghi lại lời tuyên bố của
Phạm Văn Đồng với Tổng Giám Mục địa phận Sài Gòn Nguyễn Văn Bình: “Tôi đọc
Phúc Âm nhiều lắm. Tôi nhận thấy lời dạy của Chúa Giê-Su hoàn toàn phù hợp với
chủ nghĩa xã hội ” (6)
Toàn bộ chương 14 ghi lại các sự kiện thực tế tại
Việt Nam đối chiếu với nhiều lời tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân do Hồ Chí Minh và những thủ hạ thân cận đưa ra từ 1945 tới 2000, trong
đó có nhiều con số nạn nhân bị tàn sát chỉ vì là tín đồ Phật Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo hoặc Tin Lành ...
Tác phẩm của Michel Tauriac còn nhắc nhiều thảm
trạng khác diễn ra dọc thời kỳ lịch sử Việt Nam có sự xuất hiện của Hồ Chí Minh
và Cộng Sản. Từ những cuộc thanh toán đẫm máu nhắm vào các phần tử đảng phái
không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản hồi 1945 qua cuộc cải cách ruộng đất man rợ
1953-1955 tới những vụ tàn sát kinh hoàng trong chiến tranh năm 1968 tại Huế,
Quảng Ngãi, năm 1972 tại Quảng Trị ... rồi trại tù mọc như nấm trên khắp nước,
cư dân thành phố được “tái phối trí” bằng cách lùa lên các vùng rừng
hoang khô khốc được mệnh danh là “kinh tế mới”, cảnh những người lén lút
vượt biên chen chúc nhau trên nhiều bờ bãi bất chấp sự đe dọa của tù đầy và cả
cái chết do sóng gió biển khơi hay hiểm họa hải tặc...
Theo Michel Tauriac, thực ra không chỉ từ 1945, Cộng
Sản mới bắt đầu nhúng tay vào máu đồng bào mình mà “cuộc tàn sát bắt đầu từ
năm 1931. Nhà cầm quyền thực dân thời đó không thể can thiệp. Các địa
chủ phải trả giá trước tiên. Đảng Cộng Sản Đông Dương non trẻ có trụ sở chính ở
Hải Phòng đã thúc đẩy đám đông nông dân khốn khổ miền Bắc đến chỗ giết chết mấy
trăm địa chủ tại Nghệ Tĩnh, sinh quán của Hồ Chí Minh và Quảng Ngãi đến nỗi
kích động ngay cả bầy trẻ con tham dự ”. (7) Đó là thời điểm Cộng Sản
thúc đẩy các cuộc nổi dậy thực hiện khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc,
trốc tận rễ ”.
Tác giả dành hẳn chương 11 nói về những thảm họa
chung mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng do cuộc chiến gây nên. Không chỉ có
600 ngàn thương phế binh trong hàng ngũ Cộng quân mà có tới 4 triệu người tàn
phế theo ghi nhận của tướng Trần Độ, chỉ riêng về phía Cộng Sản.
Trong khi đó một thảm trạng xã hội chưa từng có
trong lịch sử nhân loại đã kéo dài cho tới nay ở Việt Nam: nhiều bà mẹ quá
nghèo phải đem con đi bán, nhiều người khác đã cho heo ăn bào thai của mình.
Trung bình cứ 100 người mang thai thì 50 người phá. Về giáo dục thì ngay tại
Sài Gòn, 26% không được đi học. 400 ngàn thiếu niên không có bằng tiểu học và
200 ngàn hoàn toàn mù chữ.
Theo báo Lao Động của Nhà Nước Cộng Sản,
trong năm 1997, vùng châu thổ Cửu Long giầu nhất miền Nam mà có tới 45% thất
học và 50% trẻ con trên 5 tuổi không được đi học.
Michel Tauriac nhắc đến vụ thảm sát Mỹ Lai với 500 nạn
nhân bị giết bởi một đơn vị lính Mỹ mà cả thế giới nghiêm khắc lên án để thấy
tội ác trên chỉ như một chấm nhỏ trên tấm màn đen tội ác mênh mông của chế độ
Cộng Sản Việt Nam.
Tác giả đã phát biểu “không có gì để biện giải
cho tội ác Mỹ Lai. Cũng không có tội ác nào dù hung bạo hay ti tiện hơn gấp cả
trăm lần có thể xóa bỏ một tội ác khác nhỏ hơn. Nhưng sao lại có sự im lặng lạ
lùng trước những tội ác tột cùng của Cộng Sản Việt Nam với đồng bào của họ?
Phải chăng vì không thể gán những tội ác này cho mấy cái tên quen thuộc như
Hitler hay Pinochet” (8) – bởi tất cả đều dính tới một cái tên khác
mà nhiều người đã lỡ có lần lớn tiếng ca ngợi?
Michel Tauriac, theo tiết lộ của bác sĩ Nguyễn Ngọc
Qúy chủ tịch Viện Đông Nam Á ở Paris, cho biết cái con người mà nhiều người ca
ngợi đó đã chuẩn bị ướp xác cho mình từ hai năm trước khi qua đời, nhưng đến
phút cuối vẫn tạo ra một bản di chúc đầy lời lẽ xảo trá để thực hiện màn lường
gạt cuối cùng trước dư luận.
Dù tới phút này dư luận chưa chịu thú nhận sự nhẹ dạ
cả tin vì bất kỳ lý do gì, nhất là những người đã bị chi phối đậm đà bởi các
trò lường gạt thì trước sau sự thực vẫn phải được nhìn nhận là Hồ Chí Minh
chính là người chịu mọi trách nhiệm về những thảm cảnh đau thương của dân tộc
Việt Nam suốt nửa thế kỷ qua.
Bom đạn Mỹ, thậm chí hóa chất khai quang hay sóng
gió biển khơi và ngay cả những tên hải tặc đều chỉ là các tội phạm thứ yếu do
tình huống thực tế đẩy đưa mà thôi.
Tất cả những tội phạm đó không thể xóa nhòa hình
bóng của kẻ đã đẩy xã hội Việt Nam vào cảnh ngộ thực tế hiện nay, một xã hội
công an lúc nhúc như rắn rết, linh mục bị đàn áp, tăng sĩ bị tấn công, trẻ ăn
xin đầy đường phố, giới trẻ không phương hướng, bắt giam người không cần xét
xử, nhà văn bị cấm viết những gì cần viết, nhà báo nhận lệnh phải viết bất cứ
thứ gì, quan chức tham ô nhét tiền đầy túi trong khi dân chúng luôn quằn quại
với cái bụng trống không .... (9)
Michel Tauriac chỉ nhắm ghi lại những sự kiện bi đát
đã xảy ra trong cái xã hội đó nhưng tác phẩm Viet Nam, le dossier noir du communisme de 1945 à nos
jours, đã chứa đựng lời giải đáp hùng hồn nhất cho những người tới
giờ này còn đang quay cuồng với nỗi thắc mắc: Nếu Hồ Chí Minh còn sống
....
-------------------------
CHÚ
THÍCH
CHƯƠNG
22
(01) Nxb Plon, Paris, 2001. Bản dịch Việt ngữ
của Nguyên Văn xuất bản tại Mỹ năm 2003.
(02)-(03)-(04)-(05) SĐD, bản tiếng Việt, tr. 36, 37,
45, 47-48
(06)-(07)-(08)-(09) SĐD, bản tiếng Việt, tr. 201,
267-268, 285-286, 308
Last Updated Saturday, April 01 2006 @ 01:13 PM EST
điêu khắc phun thêu
ReplyDeletedieu khac phun theu
dieu khac chan may o dau dep
điêu khắc chân mày ở đâu đẹp
phun môi vi chạm
phun moi vi cham
cấy chân mày
cay chan may
cấy chân mày nam
cay chan may nam