December 30, 2013 10:08 PM
Nhà tôi có trồng hai cây mai trong chậu. Vợ tôi
thích trồng vài cây cảnh nhỏ trong nhà nhưng trồng gì cũng khó sống ngoại trừ
trồng mai. Khoảng mười năm trước khi đến thăm Montreal, nhà thơ Thủy Trang cho
chúng tôi một cây mai nhỏ. Cây mai chị cho nhỏ đến nỗi tôi để ngay trước chỗ
tay lái mà cảnh sát biên giới cả Mỹ lẫn Canada đều không thắc mắc là cây gì mặc
dù luật mang cây trái sang biên giới rất nghiêm khắc.
Cây mai lớn rất nhanh cho đến ngày nọ một người bạn
ghé chơi và phán rằng Tết sắp đến nên nhặt lá để cây mai trổ bông. Chúng tôi
dại dột nghe lời nhặt hết lá mai dù nhiều lá vẫn còn xanh và thậm chí còn non.
Vài hôm sau cây mai chết.
Từ bài học cay đắng đó, sau này khi mua cây mai khác
từ vùng Florida nắng ấm, chúng tôi để mặc mai chọn lựa thời gian rụng lá và trổ
bông bất cứ lúc nào chúng thích. Công việc của chúng tôi là canh chừng nhiệt
độ, giữ cho mai được đủ ánh sáng, mùa hè đem ra sân, mùa đông đem vô nhà, bón phân
và tưới nước. Năm nay cũng thế. Tôi không nhặt lá nhưng tháng qua hai cây mai
lần lượt tự rụng lá, mọc lên những chồi non màu tím và những nụ màu xanh. Nếu ở
chợ hoa nào đó trong nước hai cây mai nhà tôi dù đem biếu không chưa chắc có
người nhận nhưng ở miền Đông giá rét của nước Mỹ, chúng được coi quý chẳng khác
gì là linh chi ngàn năm. Mai nở trong khung cảnh chẳng có gì gọi là xuân. Mùa
xuân ở đây và cả bên nhà đều chưa đến. Trời mới sắp vào đông. Boston lạnh sớm
hơn mọi năm. Nhiều đêm nhiệt độ đã xuống đến mức đông đá. Buổi sáng đoạn đường
ngắn từ nhà bước ra xe đã đóng thành băng. Hôm nay chỉ mới cuối tháng 11. Tháng
11 đối với tôi là một tháng nhiều kỷ niệm. Tôi xem ngày 20 tháng 11 như là ngày
lễ lớn vì cách đây 27 năm, 8 giờ tối ngày 20 tháng 11 năm 1981, tôi đặt chân
đến thành phố “có tôi đây xa lạ” nhưng nay trở thành thân thiết này.
Những năm trước rảnh rỗi hơn, tôi thường dành ngày
20 tháng 11 để lái xe về thăm con đường Parkvale ở Allston, nơi bác Tôn Thất
Ân, ngày đó còn làm việc cho cơ quan bảo trợ, đưa tôi về sống những ngày đầu
tiên với những người cùng cảnh ngộ. Dù bác chỉ làm công việc của một nhân viên,
tôi cũng biết ơn bác vì sau bao nhiêu chuyến đi xa của đời mình lần đầu tiên có
một người đến đón.
Khi có dịp đi lên hướng bắc của thành phố, tôi
thường trở lại thăm con đường Commonwealth. Con đường có hai hàng hoa Mộc Lan
xinh đẹp thường được in trong các bưu thiệp để giới thiệu về thành phố Boston.
Đường Commonwealth có trường đại học Boston, nơi tôi ghi danh học môn ngôn ngữ
điện toán đầu tiên hết sức khó, đêm ngủ thường chiêm bao thấy mặt ông thầy.
Thời đó, mỗi sinh viên dù chuyên ngành cũng chỉ được xử dụng máy mỗi tuần 8 giờ
ngoại trừ sau 11 giờ tối đến 5 giờ sáng. Những kẻ đánh máy theo kiểu “nhất
dương chỉ” như tôi thường phải ngủ sớm để khuya thức dậy đi làm bài. Trên đường
Commonwealth còn có trụ sở của International Institute of Boston, cơ quan thiện
nguyện đã bảo trợ tôi trong những ngày mới đến.
Tôi cũng thích ghé ngang qua công ty Teradyne, một
công ty điện tử quen thuôc với người Việt, nơi lần đầu trong một buổi chiều
mưa, tôi đã gặp gỡ một người sau này trở thành vợ tôi. Những người quen, có
người còn người mất và những con đường, căn nhà, hàng cây, qua mấy chục năm đã
thay hình đổi dạng nhưng trong lòng tôi kỷ niệm vẫn màu xanh.
Kỷ niệm, dù vui hay buồn, dù ngọt ngào hay cay đắng,
nếu biết chiêm nghiệm, cũng giúp thăng hoa cho cuộc sống con người.
Trời năm nay cũng mưa nhiều hơn năm trước. Mưa và
mưa. Những cơn mưa lạnh kéo dài suốt cuối tuần qua. Mưa nhiều đến mức Thống Đốc
tiểu bang Massachusetts phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp để phòng chống lụt.
Những chặng đường của đời tôi đi qua cũng được đánh dấu bằng những cơn mưa. Tôi
rời làng Mã Châu một mình khi còn rất nhỏ và đêm đầu tiên ở Đà Nẵng là một đêm
mưa. Tôi vào Sài Gòn trong một chiều mưa và đêm từ giã Sài Gòn cũng trong cơn
mưa lớn. Và bao nhiêu cơn mưa khác. Mưa khi lái xe rời thành phố có ánh trăng
mười sáu soi đường, mưa khi xa sân trường trung học có hàng phượng vĩ, mưa khi
lần cuối đạp xe qua con đường Duy Tân có bóng me xanh. Và bao nhiêu kỷ niệm, dù
một ngày, một năm hay một đời, dù còn ở lại hay ra đi vội vàng như những chiếc
lá cuối thu, âm hưởng của chúng vẫn còn vang trong tâm hồn tôi bất tận.
Mưa làm tôi nhớ lại những cơn mưa tuyết chào đón tôi
27 năm về trước cũng vào cuối tháng 11 này. Tôi quen đi và đến một mình nhưng
phải công nhận khi rời Manila để đến Boston là một trong những thay đổi lớn
nhất. Sáng 17 tháng 11 năm 1981, đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn phát cho chúng tôi mỗi
người một tờ giấy có ghi những chuyến bay đi và đến. Tấm giấy của tôi có ghi
phi trường tôi sẽ đến bằng chữ BOS. Tôi không hiểu đó là đâu vì chưa quen với
cách viết tắt các phi trường Mỹ. Nhân viên Cao Ủy giải thích trạm cuối cùng của
tôi là Boston. Đứng trong góc phòng tôi nghĩ về thành phố mang tên của một điệu
nhạc buồn. Boston xa xôi quá. Phần lớn người trong đoàn sẽ về California nắng
ấm vì họ có thân nhân. Tôi thuộc diện “mồ côi”, hiểu theo nghĩa tỵ nạn là không
có thân nhân ở Mỹ, sẽ đi về xứ lạnh.
Và như thế, đoàn người tỵ nạn chúng tôi lên xe bus
ra phi trường. Gia tài của tôi, dăm bài thơ dang dở và một bộ áo quần. Hôm rời
trại Palawan, tôi mang dép ra phi trường đi Manila. Một người nhắc tôi nên lên
chỗ Sơ Pascal xin một đôi giày. Tôi không đi, tự nghĩ Sơ còn phải lo chăm sóc
cho đám trẻ em, mình lớn rồi nên tự lo liệu lấy. Ở Manila, một người quen cho
tôi một đôi giày nhưng số nhỏ hơn bàn chân tôi nhiều. Đôi giày chật chội làm
mấy ngón chân tôi chảy máu.
Và như thế, tôi tạm biệt trại Palawan thân thương,
tạm biệt thủ đô Manila kỷ niệm, tạm biệt cảng Subic Bay nơi chiến hạm White
Plains có thể đang nhả neo, tạm biệt đất nước Philippines với lòng biết ơn bảo
bọc, tạm biệt Thái Bình Dương bao la nơi đồng bào tôi đang lênh lênh trong dòng
nước đó và tạm biệt phương đông, tôi mang thơ đi về phương tây bằng đôi chân
đang rỉ máu, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Không ai đưa tiễn, như trong thơ
Nguyễn Bính, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly”.
Ngồi trên máy bay mà lòng miên man tưởng tượng những
gì đang chờ đón mình. Hồi còn nhỏ tôi nhiều lần đi xa nhưng không ý thức hết sự
quan trọng của mỗi chuyến đi. Ngày đó tôi đi như con chim nhỏ cuốn theo dòng
định nghiệp. Với đôi cánh nhỏ nhoi và sức bay yếu ớt của mình, tôi chỉ biết
nương theo chiều gió mà sống sót. Có khi đậu trúng bãi cát nóng Sơn Chà, có khi
rớt xuống trại cây khô Đà Nẵng, có khi rơi dưới gốc đa già ở Hội An, nhưng dù ở
đâu, trong hoàn cảnh nào, tôi cũng đã cố gắng bay lên để hót vang giữa núi rừng
đầy bất trắc.
Không phải bây giờ mà ngày xưa cũng thế, không ai
biết tôi một mình. Tôi có con người của xã hội và con người của riêng tôi, hòa
hợp và tương phản, im lặng và sôi nỗi, luôn cố gắng làm điều tốt nhưng cũng
phạm nhiều lỗi lầm. Tôi luôn sống rất vui, rất lạc quan và rất yêu đời. Tôi
luôn tìm được những điều tích cực ngay cả trong những hoàn cảnh vô cùng tuyệt
vọng như khi đứng trên bờ kinh Chu Hải một buổi sáng tháng 6 năm 1981 chẳng
hạn. Nhưng bay đến Boston thì khác. Năm 1981 tôi đã ở tuổi trưởng thành và ngọn
núi đang chờ tôi ở Boston cũng cao hơn nhiều so với những ngọn núi thời thơ ấu.
Tôi không chỉ phải chọn lựa cách vượt qua mà còn phải vượt qua bằng con đường
ngắn nhất và nhanh nhất.
Sau 27 năm, ngọn núi vẫn còn đó, thử thách vẫn còn
đó, bao nhiêu việc muốn làm vẫn chưa làm xong, mơ ước thời tuổi trẻ vẫn còn là
mơ ước, nhưng ít ra, nhân ngày đánh dấu 27 năm định cư trên nưóc Mỹ, nhìn lại
đời mình, tôi nghĩ mình đã làm được một vài việc có ích cho xã hội, đã đi một
đoạn đường, đã gieo trên mảnh đất cằn khô mà tôi đặt chân qua vài hạt giống tôi
tin là tốt cho tương lai. Và tất cả những điều tôi đã làm sẽ không thành nếu
thiếu đi một chất liệu căn bản. Đó là tình người.
Tình người trong những ngày ở ngoài nước không bắt
đầu từ đâu xa mà ngay trong cộng đồng tôi đang sống. Một cái bắt tay, một lời
chào, một lời an ủi, một tiếng cười và nhiều khi cả những giọt nước mắt chia
buồn đã tạo trên xứ người xa lạ này một góc quê hương. Chúng tôi nương tựa vào
nhau, gần gũi nhau hơn cả những người thân thiết trong gia đình. Đất nước nằm
bên kia trái đất xa xôi nhưng tình người có ở khắp nơi và vô cùng gần gũi. Khái
niệm cộng đồng không phải là khái niệm mới mà đã có trong tự điển từ ấn bản đầu
tiên nhưng giá trị thật sự của khái niêm nầy chỉ thể hiện trong sự hình thành
của cộng đồng người Việt hải ngoại sau 1975.
Ở Boston trong những năm đầu thập niên 1980, tôi
biết có nhiều người chuyên đi tìm trường dạy nghề, các hãng xưởng, các lớp
tiếng Anh miễn phí hay những chỗ cho mướn nhà rẻ để giới thiệu lại cho bà con
còn gặp khó khăn. Mỗi tuần chúng tôi gặp nhau để nghe các anh chị đó thông báo
những tin tức họ vừa tìm hiểu được. Họ không làm cho cơ quan thiện nguyện nào
cả nhưng chỉ nhờ nói được tiếng Anh tốt hơn nhiều người khác. Tôi cũng biết một
anh suốt nhiều năm trời đã tận tụy với công việc đi đón người mới đến, từ thế hệ
vượt biên cho đến các đợt HO sau nầy. Dù khuya khoắt bao nhiêu, tuyết rơi ngập
lối hay giá rét căm căm anh vẫn đứng chờ trên hành lang phi trường để mang đến
cho bà con vừa đặt chân xuống máy bay những lời thăm hỏi đầu tiên vô cùng cần
thiết. Như bầy chim tránh bão, chúng tôi đã nương tựa nhau mà sống dưới tàn
cây phong và sưởi ấm đời nhau bằng que củi tinh thần.
Những đồng hương có lòng tốt như thế không phải chỉ
có ở Boston mà chắc chắn cũng có ở Montreal, Toronto, Chicago, San Jose, Santa
Ana, Paris, Sydney, Berlin và khắp nơi tại hải ngoại. Tên tuổi của họ có thể
không được vinh danh trong những tiệc tùng sang trọng, không được nêu trong
danh sách của những anh hùng làm rạng danh cộng đồng người Việt. Không, họ
không phải là những khoa học gia có nhiều bằng sáng chế, những trí thức học
nhiều hiểu rộng, những chủ công ty lớn, những dân cử được bầu bán, những thương
gia giàu có nhưng nếu thiếu họ cộng đồng chúng ta đã phải khó khăn vất vả biết
bao nhiêu. Con đường nào, đại lộ nào cũng có tên nhưng của con đường trưởng
thành của cộng đồng Việt Nam phải được mang tên họ, những đồng hương Việt Nam
làm việc trong âm thầm nhưng đầy lòng nhân ái.
Nếu không có tình cộng đồng có thể tôi vẫn sống,
cũng học ra trường, cưới vợ, có con và đi làm để xây dựng cho mái ấm cho riêng
của mình, nhưng tình cộng đồng đã mang đến những điều tôi không có. Tình cộng
đồng là mùa xuân của cuộc đời tỵ nạn, đã giúp tôi mang cái riêng vào cái chung,
giúp tôi hiểu ý nghĩa giọt nước mà tôi đang uống, chén cơm mà tôi đang ăn. Tình
cộng đồng là nguồn suối của rất nhiều thơ và văn tôi.
Tháng 8 năm nay, tôi in một cuốn sách mới nhưng cố ý
dành đến gần ngày kỷ niệm 20 tháng 11 để giới thiệu đến bà con Boston trước khi
đi giới thiệu vài nơi khác. Như tôi có thưa với bà con có mặt hôm đó, họ không
phải là độc giả hay là những người thưởng ngoạn văn học nghệ thuật nhưng là một
phần trong đời sống tinh thần, là nội dung và tâm hồn của cuốn sách tôi vừa
viết. Tôi đi nhiều nơi nhưng bao giờ cũng muốn về lại Boston, thành phố thân
yêu nơi tôi sống lâu hơn thời gian tôi đã sống ở Việt Nam. Không có đời sống tỵ
nạn, hẳn nhiên vẫn có tôi nhưng sẽ không có Trần Trung Đạo, bút hiệu mà tôi đặt
cho bài thơ đầu tiên viết ngoài Việt Nam.
Boston gắn liền với tình cảm của tôi như một người
anh văn nghệ, nhà văn Trần Hoài Thư có lần đã viết: “Con đường
Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt Nam. Và một khu Việt. Và những gương
mặt da vàng. Và những lời trao đổi bằng tiếng mẹ đẻ vang trên bãi đậu xe. Đời
sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay quắt. Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu mấy
thằng trôi thất tán. Mấy thằng đợi một chuyến đò ngang…Cái mẫu số chung ấy là
mẫu số của bất cứ người tị nạn nào trong chúng ta…Cám ơn Boston với những con
tim kỳ diệu. Nếu không có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ không có
Trần Trung Đạo”.
Thật vậy, có lần, sau khi bán căn nhà ở Dorchester
nhưng lại không di chuyển về thành phố khác, vợ chồng tôi phải đi tìm mua căn
nhà mới. Chúng tôi đến phía nam tiểu bang Massachusetts và tìm được một căn nhà
rất khang trang nhưng giá cả phải chăng vì khá xa thành phố. Trên đường lái xe
về, vợ tôi đoan chắc là tôi sẽ không mua căn nhà đó, lý do đơn giản vì xa cách
với cộng đồng người Việt Boston. Vợ tôi nói đúng. Tôi không thể sống xa cộng
đồng Việt Nam. Tôi chỉ có thể ở những nơi nào mà trong vòng 20 hay 30 phút tôi
phải có mặt khi cộng đồng cần đến tôi. Tôi không có phòng mạch ở Boston, không
có nhà hàng ở Boston, không có văn phòng luật sư ở Boston và tôi cũng chưa bao
giờ đảm nhiệm một chức vụ gì trong ban chấp hành cộng đồng nhưng khi nghĩ đến
cộng đồng, tôi luôn nghĩ đó là cộng đồng của tôi, giống như nhà tôi bây giờ hay
chùa tôi, cây đa thân thiết của tôi ngày trước. Câu nói “Cộng đồng của tôi” thể
hiện một quyền sở hữu nhưng không phải sở hữu tài sản vật chất mà là một thứ sở
hữu tình cảm, một mối tình đã gắn bó thủy chung với tôi suốt 27 năm qua.
Cách nhà tôi khoảng 20 dặm về phía nam là một thành
phổ nhỏ nhưng rất nỗi tiếng bởi vì đó là một trong những trạm khởi hành của
lịch sử Mỹ, thành phố Plymouth. Nhóm người đâu tiên đã trải qua nhiều khó khăn
nhưng ít ra họ hơn cộng đồng người Việt một điều là khi ngồi trên chiếc tàu
Mayflower họ biết rằng họ đang giăng buồm đến Mỹ. Người Việt Nam thì khác, ra
đi như chỉ để ra đi. Khi đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn biển
cả mênh mông và những cụm mây bay xa tít cuối chân trời, tôi không biết đời
mình rồi sẽ ra sao. Tôi tin, ngoại trừ một số ít có thân nhân, những người ra
đi như tôi đều chia sẻ một tâm trạng buồn giống nhau như thế. Làm người chỉ có một quê hương,
vâng, nhưng quê hương không bao giờ đủ nghĩa và trọn vẹn nếu quê hương không
có tự do. Tôi thán phục câu nói của Tổng Thống Abraham Lincoln “Nơi nào có tự do, nơi đó là quê hương tôi” và từ suy nghĩ đó tôi đi.
Không phải chỉ Boston thôi, mà tôi tìm thấy tình
người trong tất cả những nơi tôi đã đến. Nhiều mùa hè, tôi dành gần như tất cả
cuối tuần để đi đến các thành phố lớn nơi có cộng đồng Việt Nam và bạn bè tôi
đang sống như Orange County, San Jose, Atlanta, Washing DC, Seattle,
Sacramento, San Diego, Denver, Tampa, Miami, Chicago, Houston, Dallas, Montreal
v.v. và ở đâu tôi cũng tìm thấy sức sống mỗi ngày thêm mạnh của cộng đồng người
Việt, một tình đồng hương đầm ấm, thiết tha. Tôi đã đến với những cộng đồng nhỏ
đến mức vào ngày Tết tập trung hết cũng chỉ có vài chục gia đình như ở Cary,
North Carolina và tôi cũng đã đến với những cộng đồng rất lớn có cả hàng chục,
hàng trăm nghìn người như Santa Ana, San Jose, Houston, Dallas. Và dù ở đâu tôi
vẫn bắt gặp giòng suối tình thương Việt Nam đang chảy và hàng cây hy vọng mỗi ngày
một thêm cao lớn. Tháng trước tôi trở lại thăm Atlanta. Mười năm tôi mới có dịp
ghé qua đó một đêm. Trong chương trình thơ nhạc, tôi vẫn còn được các chú bác
anh chị ở Atlanta gọi một cách thân thương là “nhà thơ trẻ”. Thật ra tôi không
còn trẻ nữa nhưng vì hầu hết những người từng gọi tôi như thế trong lần đọc thơ
mười năm trước cũng có mặt trong buổi chiều đọc thơ lần nầy. Mái tóc họ bạc hơn
và những bước đi chậm hơn nhiều nhưng họ vẫn giữ trong tâm hồn một tình cảm và
một hình ảnh mến thương nguyên vẹn như trong lần đầu tôi đã ghé thăm.
Ba mươi ba năm, từ những ngày đầu tiên khi ánh mắt
còn ngỡ ngàng, bước chân còn ngần ngại, câu nói còn vụng về, cộng đồng Việt Nam
đã trưởng thành về mọi phương diện. Những siêu thị mỗi ngày một đông hơn,
thương xá rộng hơn, nhà cửa cao hơn, xe cộ mới hơn. Hẳn nhiên, cộng đồng Việt
Nam chưa phải là một cộng đồng tuyệt vời, hoàn hảo như mỗi chúng ta có thể đang
mơ ước. Có những điều chưa trọn vẹn, nhiều hiện tượng tiêu cực và nhiều ước mơ
chưa trở thành hiện thực.
Mồi khi lật trang quảng cáo của một tờ báo, ở bất cứ
tiểu bang nào, ở bất cứ nước nào, chúng ta cũng thầm tự hỏi phải chi tất cả ông
bà bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, luật sư, thương gia đang quảng cáo đầy kín tờ báo
kia, dành một ngày, một ngày thôi, để đến với nhau trong lễ Giổ Tổ Hùng Vương
hay Tết Dân Tộc thì cộng đồng chúng ta sẽ đẹp hơn, sẽ mạnh hơn, sẽ ấm cúng hơn
biết bao nhiêu.
Ngoại trừ một số ít có tinh thần dấn thân, một số
khác đông hơn vẫn còn xa cách, vẫn xem cộng đồng người Việt đơn giản chỉ là những
khách hàng không khác gì người Hoa, người Mễ. Họ quên rồi chăng? Trong ký ức
chưa phai của những lưu dân vừa bỏ nước ra đi, có họ trong những người từng sắp
hàng trước cơ quan an sinh xã hội để lãnh tiền trợ cấp, có họ trong những đoàn
người chân ướt chân ráo, lạc đường, lạc nẽo giữa phố người. Hàng cây phong còn
đó nhưng bầy chim đã sớm bỏ nhau đi khi mùa đông đến. Tôi mong có một ngày họ
sẽ đến, đúng ra là sẽ trở về, để tìm lại chính mình trong cộng đồng người Việt
với tư cách là thành viên của một đại gia đình, nơi chính họ đã nhờ đó mà thành
công.
Không giống như các tình trạng rẽ chia, hận thù và
phân hóa thường thể hiện qua những hiện tượng tiêu cực trong đời sống hàng ngày
mà ai cũng dễ dàng nhận thấy, tình thương là dòng suối mát nhưng nhiều khi chảy
rất âm thầm, như sáng nay trong nhà tôi những búp mai xanh đã âm thầm nở thành
những cánh hoa vàng rực rờ. Mùa xuân đang lần nữa qua đây.
Trần
Trung Đạo
(Bài viết còn có tựa khác: Tâm Sự Với Mùa Xuân)
(Bài viết còn có tựa khác: Tâm Sự Với Mùa Xuân)
cấy chân mày nữ
ReplyDeletecay chan may nu
phun mày tán bột
phun may tan bot
phun mày tán bột ở đâu đẹp
phun may tan bot o dau dep
điêu khắc lông mày ở đâu đẹp
dieu khac long may o dau dep
lam dep tai anh thu
lam dep tai spa anh thu