Chúng ta, những người yêu chuộng tự do và nhân phẩm,
cần tiếp sức với anh để gióng vang xa những gì anh đã phải đánh đổi sự an nguy
của mình để có được. Chúng ta cần kêu gọi cộng đồng trong nước và quốc tế lên
tiếng bảo vệ anh và các anh em của anh trước phiên toà sơ thẩm sắp tới mà đọc
qua bản cáo trạng đã có thể thấy trước sự bất công đã được dàn xếp sẵn để áp
đặt lên các anh. Anh xứng đáng là biểu tượng của hàng chục triệu dân oan đang
hàng ngày phải khiếu kiện đòi công bằng trước những luật lệ bất công. Chúng ta
hãy cùng nhau lên tiếng mạnh mẽ để những người cầm quyền thấy rằng nếu họ áp
đặt một bản án tàn nhẫn lên các anh thì đó cũng sẽ là một cáo trạng cho chính
họ và biến anh thành người anh hùng, một biểu tượng của sự dũng cảm dám vùng
lên để bảo vệ lợi ích và quyền con người, truyền cảm hứng và sức mạnh cho cuộc
đấu tranh vì tự do, công bằng và nhân phẩm...
*
Vụ án anh Đoàn Văn Vươn xảy ra lúc tôi còn trong tù.
Đầu tiên nghe tin trên VTV nói rằng có một việc chống người thi hành công vụ
rất táo tợn tại Hải Phòng, hung thủ dùng súng tự chế gây thương tích cho lực
lượng công an. Bản tin không nói rõ vụ việc này xuất phát từ việc cưỡng chế đất
đai nên lúc đầu chúng tôi tưởng đây là sự táo tợn của các tội phạm hình sự.
Nhưng không lâu sau đó cũng trên VTV phát một phóng sự cho biết sự việc liên
quan đến chính quyền địa phương tổ chức cưỡng chế thu hồi đất đai và có nhiều
sự khuất tất trong cách hành xử của quan chức. Ngay khi xem xong phóng sự này
anh Trần Huỳnh Duy Thức nói với tôi rằng anh Vươn không phải là tội phạm mà là
nạn nhân của cường quyền nhân danh "chính quyền" và "đất đai
thuộc sở hữu toàn" để cưỡng đoạt tài sản của người dân. Rồi anh Thức dẫn
lời Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền: “Nếu không muốn người dân phải vùng lên như
một biện pháp (hoặc một chỗ dựa) cuối cùng để chống lại cường quyền và áp bức
thì bắt buộc phải bảo vệ quyền con người bằng pháp luật”. Rồi anh phân tích rất
nhiều để cho thấy rằng anh Vươn là một người dũng cảm đã dám vùng lên chống lại
cường quyền khi mà mọi biện pháp bằng đấu tranh pháp lý không giúp được cho gia
đình anh và những người nông dân bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình.
Pháp luật không còn là chỗ dựa cho người dân lành thì tất yếu như quy luật “tức
nước vỡ bờ”, họ phải sử dụng vũ khí để tự vệ chính đáng nhằm bảo vệ mình và gia
đình.
Lúc đó anh Thức kể tôi nghe câu chuyện về nhân vật
vĩ đại, huyền thoại Nelson Mandela. Ông xuất thân từ dòng dõi quý tộc, đã có
thể thừa kế vương vị của một bộ tộc lớn nhất của Nam Phi. Dù có một giai đoạn
khó khăn ngắn sau khi cha mất, nhưng sau đó ông được một nhiếp chính vương
triều, người nhận ơn từ cha ông, đỡ đầu và sống một cuộc sống đầy đủ. Ông được
cho học những trường tốt nhất của Nam Phi thời đó. Nhưng khi sắp tốt nghiệp trở
thành luật sư thì ông chấp nhận bị đuổi học chứ không chịu thỏa hiệp với sự sắp
đặt cho một cuộc bầu cử dân chủ giả hiệu để đưa ông lên làm lãnh đạo sinh viên.
Đây là bước ngoặt đã đưa chàng thanh niên Mahiba (tên theo bộ tộc của Nelson
Mandela) dấn thân vào con đường đấu tranh cho quyền công dân của người da màu ở
Nam Phi. Ông gia nhập phong trào Đại hội Dân tộc Phi (ANC) – một phong trào đấu
tranh bất bạo động vốn đã từng được lãnh đạo bởi chính ngài Gandhi. Nhiều năm
đầu ông kiên trì theo đuổi các hành động phi bạo lực như biểu tình, bất tuân
dân sự, thỉnh nguyện thư. Cuộcđấu tranh này đã dẫn đến nhiều cao trào được quần
chúng ủng hộ mạnh mẽ nhưng vẫn không buộc được chính quyền phân biệt chủng tộc
Nam Phi chấp nhận thay đổi để tôn trọng quyền công dân cho người da màu. Mỗi
lần các phong trào quần chúng phát triển đến cao trào thì chính quyền ra tay
đàn áp và bỏ tù những lãnh đạo của các phong trào này bằng những thủ đoạn vu vạ
cho họ sử dụng bạo lực. Chính Nelson Mandela trong giai đoạn đó đã từng bị đưa
ra xét xử theo kiểu như vậy nhưng cuối cùng được trắng án nhờ sự ủng hộ và bảo
vệ nhiệt tình của rất nhiều luật sư da trắng tiến bộ.
Sau biến cố trên Nelson Mandela đã suy nghĩ rất
nhiều và dẫn đến một nhận định rằng không thể ôn hoà để đấu tranh giành lại
quyền chính đáng đó với một chính phủ cường quyền như vậy. Tất cả mọi biện pháp
hợp pháp theo pháp luật của chế độ này đều bị đàn áp và chà đạp. Pháp luật đó
không phải là chỗ dựa của đa số nhân dân Nam Phi để bảo vệ quyền lợi chính đáng
của mình. Ông buộc phải tin rằng không thể phi bạo lực với một chính phủ chỉ
biết dùng vũ lực của an ninh để đáp ứng đòi hỏi của người dân. Và dù vẫn tôn
trọng nguyên tắc bất bạo động cho đích đến cuối cùng, ông quyết định lập ra
nhóm vũ trang có tên gọi là MK nhằm mục tiêu đánh phá các cơ sở kinh tế của nhà
cầm quyền độc tài Nam Phi lúc đó. Ông chủ trương tránh các khu vực có thể ảnh
hưởng đến dân cư. Dù vậy đó vẫn là một tổ chức có tính chất khủng bố cho dù nó
vì mục tiêu chính đáng. Bởi điều này mà sau đó ông bị bắt và cuối cùng bị kết
án tù chung thân. Bản án này biến ông trở thành người một người hùng của thanh
niên da đen nói riêng và của cả dân tộc da màu ở Nam Phi nói chung. Từ đó, dù ở
trong tù nhưng ông trở thành một biểu tượng để các phong trào và lực lượng đấu
tranh vì quyền công dân cho người da màu ở Nam Phi duy trì hoạt động trong suốt
26 năm ông bị tù đày. Trong suốt thời gian đó ông luôn kiên định lý tưởng và
mục tiêu của mình và không chịu từ bỏ phương thức đấu tranh vũ trang cho đến
khi tổng thống Botha của Nam Phi lúc đó chấp nhận đối thoại với ông để tìm kiếm
một giải pháp chính trị cho đất nước. Sự kiện này cuối cùng đã dẫn đến kết quả
là tổng thống De Clerk, người kế nhiệm Botha buộc phải thả ông trước áp lực
trong nước và quốc tế và khởi đầu cho tiến trình hoà giải dân tộc, dẫn đến bầu cử
tự do vào năm 1994. Chính sự kiện này đã mang đến giải Nobel Hoà bình cho cả
hai ông Mandela và De Clerk. Cuộc bầu cử tự do đã trao chức tổng thống cho
Mandela và phó tổng thống cho De Clerk.
Từ nhỏ Nelson Mandela được biết đến như một thiếu
niên hiền lành, có phần rụt rè. Lớn lên ông là một thanh niên ôn hoà, cư xử rất
đúng mực. Chính sự cường quyền của chế độ phân biệt chủng tộc đã buộc ông phải
sử dụng vũ lực như một chỗ dựa cuối cùng để đấu tranh loại bỏ chế độ độc tài
cường quyền. Câu chuyện của ông là một minh chứng cho tính tất yếu của quy luật
“tức nước vỡ bờ” mà Liên Hiệp Quốc đã thừa nhận là không thể tránh khỏi nếu
những kẻ cầm quyền không tôn trọng và bảo vệ chính đáng quyền con người cho con
người.
Sau khi ra tù tôi tìm đọc lại hồi ký “Đường dài đến
với tự do” của Nelson Mandela. Điều làm tôi thật xót xa là những sự cường
quyền, bạo ngược mà ông lên án về chế độ độc tài phân biệt chủng tộc ở Nam Phi
thời đó còn thua xa những gì đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của mình. Những
người da màu ở Nam Phi dù không được công nhận quyền công dân trong việc bầu cử
và ứng cử vào bộ máy cầm quyền nhưng hầu hết các quyền con người của họ đều
được tôn trọng. Họ có quyền biểu tình bất bạo động bất kỳ lúc nào họ muốn. Họ
có nhiều tờ báo tư nhân của cả người da màu lẫn da trắng để hỗ trợ người da màu
thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình. Không có sự kiểm soát và đàn áp tôn
giáo nào xảy ra trong thời gian đó. Người da màu dù không được đối xử công bằng
trong việc quy hoạch một số các vùng đất tốt ưu đãi cho người da trắng nhưng họ
vẫn có quyền sở hữu đất đai của mình và không có chuyện bị thu hồi, tước đoạt
bất kỳ lúc nào ngoài ý muốn của họ và cộng đồng của họ. Chính Mandela khi bị
đưa ra xét xử trong vụ án mà ông phải lãnh án tù chung thân nói trên đang là
một tù nhân chính trị trong một vụ án khác trước đó. Nhưng tất cả mọi quyền con
người của ông trong quá trình điều tra và xét xử được tôn trọng và bảo vệ một
cách nghiêm túc. Ông được tạo mọi điều kiện cần thiết và đầy đủ để thực hiện
quyền tự bào chữa của mình. Cho dù lực lượng an ninh Nam Phi tìm mọi cách để
hạn chế quyền của ông nhưng toà án nước này vẫn bác bỏ các yêu cầu của an ninh
để bảo đảm quyền và điều kiện tự bào chữa cho ông. Phiên toà của ông có đến
hàng ngàn người ủng hộ đến tham dự mà cành sát Nam Phi được lệnh toà án phải
thực hiện mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho họ được tham dự một cách trật
tự. Không một ai bị đòi hỏi phải có giấy mời được vào phiên toà dù vụ án này
thuộc loại an ninh quốc gia. Trên đường dẫn giải vào phiên toà những người ủng
hộ ông hát vang các bài ca tranh đấu mà không cảnh sát nào được quyền ngăn chặn
quyền bày tỏ đó của họ. Điều rất đáng chú ý là ông được cung cấp đầy đủ sách
luật các loại, giấy viết và phòng làm việc để ông có thể viết ra bản tự biện hộ
cho mình mà an ninh lẫn cai tù không ai được phép can thiệp, xem trước. Và dù
đoán biết trước rằng ông sẽ tận dụng bản tự biện hộ để viết thành một bản cáo
trạng lên án chính quyền và chế độ phân biệt chủng tộc, nhưng an ninh Nam Phi
cũng không có quyền ngăn cản ông chuyển văn bản đó trực tiếp cho con gái của
mình cầm ra khỏi nhà tù.
Vào ngày mà ông đứng trước toà đọc bản biện hộ đó
thì cùng lúc ấy con gái ông đứng trước công chúng đọc bản cáo trạng đó cho hàng
chục ngàn người đang xuống đường tuần hành ủng hộ ông. Ngay lập tức hàng loạt
tờ báo lớn ở Nam Phi đã đăng tải bản tự biện hộ kiêm cáo trạng này. Không một
ai bị bắt hoặc sách nhiễu vì đã thực hiện các quyền tự do ngôn luận như thế của
mình. Nhờ những áp lực dư luận trong nước như vậy và sự lên án của quốc tế mà
ông đã thoát án tử hình.
So sánh với những phiên toà bị gọi là an ninh quốc
gia ở Việt Nam hơn nửa thế kỷ sau vụ án trên của Nelson Mandela, cảm xúc không
chỉ xót xa mà còn hổ thẹn cho ngành tư pháp và những quan toà chỉ biết phán
theo chỉ thị. Có một chi tiết “thú vị” là khi bắt đầu phiên toà, Nelson Mandela
đã yêu cầu thay đổi một thẩm phán vì ông cho rằng người này không thể đảm bảo
sự vô tư vì đã từng có mối quan hệ với bộ Tư pháp Nam Phi. Vị thẩm phán này đã
phải thừa nhận và xin lỗi rồi xin rút lui. Ngay phút đầu tiên của phiên toà sơ
thẩm xét xử chúng tôi, anh Thức đã yêu cầu thay đổi toàn bộ hội đồng xét xử
bằng những người không phải đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam với những lập luận
chặt chẽ từ bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử này đã đáp lại yêu cầu của
anh bằng việc bác bỏ “vì không có đủ căn cứ pháp lý” trong khi đó bộ luật tố
tụng hình sự mà họ căn cứ để xét xử chúng tôi ghi rất rõ rằng những người tiến
hành tố tụng (bao gồm thẩm phán, hội thẩm, thư ký, kiểm sát viên,…) Không được
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến các bên tham gia tố tụng (gồm bị cáo,
người/đối tượng xâm phạm mà trong trường hợp này là chính quyền của đảng Cộng
sản Việt Nam) Ấy vậy mà cáo trạng lẫn bản án đã cáo buộc chúng tôi lật đổ
“chính quyền nhân dân” bởi vì đã cố gắng loại bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng
sản Việt Nam.
Không chỉ các vụ án chính trị, mà trong hầu hết các
vụ án hình sự ở Việt Nam quyền con người đều không được tôn trọng. Điều trớ
trêu là trong những vụ án như vậy công dân nước ngoài còn được bảo vệ quyền con
người nhiều hơn là công dân Việt Nam ngay trên tổ quốc của mình. Quyền công dân
của người Việt Nam chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Còn trên thực tế thì nó được
dùng để hợp thức hoá sự cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam trong những cuộc
bầu cử cho những người do đảng lựa chọn. Sự lựa chọn duy nhất mà người dân có
được trong những cuộc bầu cử đó là chọn giữa “tự nguyện” từ bỏ quyền công dân
và quyền con người của mình với bị đánh mất sự bình yên, an toàn vì miếng cơm
manh áo. Chọn lựa nào cũng là sự hạ thấp nhân phẩm. Trong một xã hội như Nam
Phi thời phân biệt chủng tộc, người ta còn phải vùng lên với vũ khí trong tay.
Đừng nói đến một xã hội bị bóp nghẹt bởi toàn trị như Việt Nam. Chúng ta không
khuyến khích bạo lực. Chính sự cường quyền đã thúc đẩy bạo lực, buộc những
người dân lành phải sử dụng nó như một chỗ dựa cuối cùng và duy nhất để bảo vệ
mình. Trong các bức thư bác Trần Văn Huỳnh gửi cho chính phủ Việt Nam và các
nước để kêu gọi trả tự do cho anh Trần Huỳnh Duy Thức, bác viết rằng khi chính
phủ kết tội những người đã đấu tranh đòi quyền con người bằng cách bất bạo động
là những tội phạm âm mưu “diễn biến hoà bình” thì chính phủ đó đang khuyến
khích bạo lực và cổ vũ cho chiến tranh.
Anh Đoàn Văn Vươn là một nông dân hiền lành, chất
phát, chịu thương chịu khó. Anh cùng với anh em và gia đình mình đã chấp nhận
rủi ro và gian khổ hàng chục năm trời để khai hoang đầm lầy, rừng thiêng nước
độc thành những vùng đất, ao hồ nuôi sống gia đình mình và đóng góp lợi ích cho
quốc gia. Nhưng những thành quả đó đã bị tước đoạt không thương tiếc, đẩy cả
đại gia đình anh và những bà con nông dân ở đó vào chỗ khốn cùng.
Anh và bà con đã tin tưởng luật pháp gửi đơn khiếu
nại khắp nơi nhưng chỉ nhận được sự phũ phàng. Còn chỗ dựa nào khác ngoài sự
cam chịu hoặc vùng lên. Anh Vươn và các anh em mình đã chọn làm người để vùng
lên bảo vệ quyền con người và lợi ích của gia đình mình nói riêng và của hàng
triệu người dân oan nói chung. Đó là sự hy sinh to lớn của anh để gióng lên
những nỗi lòng của dân chúng và những lời cảnh báo đối với cường quyền.
Chúng ta, những người yêu chuộng tự do và nhân phẩm,
cần tiếp sức với anh để gióng vang xa những gì anh đã phải đánh đổi sự an nguy
của mình để có được. Chúng ta cần kêu gọi cộng đồng trong nước và quốc tế lên
tiếng bảo vệ anh và các anh em của anh trước phiên toà sơ thẩm sắp tới mà đọc
qua bản cáo trạng đã có thể thấy trước sự bất công đã được dàn xếp sẵn để áp
đặt lên các anh. Anh xứng đáng là biểu tượng của hàng chục triệu dân oan đang
hàng ngày phải khiếu kiện đòi công bằng trước những luật lệ bất công. Chúng ta
hãy cùng nhau lên tiếng mạnh mẽ để những người cầm quyền thấy rằng nếu họ áp
đặt một bản án tàn nhẫn lên các anh thì đó cũng sẽ là một cáo trạng cho chính
họ và biến anh thành người anh hùng, một biểu tượng của sự dũng cảm dám vùng
lên để bảo vệ lợi ích và quyền con người, truyền cảm hứng và sức mạnh cho cuộc
đấu tranh vì tự do, công bằng và nhân phẩm.
31/03/2013
gửi Dân Làm Báo
No comments:
Post a Comment