Wednesday, 10 July 2013

VỀ HAI CUỐN SÁCH CỦA TÁC GIẢ VY THANH (Nguyễn Ngọc Bích)




Nguyễn Ngọc Bích
Tuesday, July 09, 2013 7:57:27 PM

Tôi được làm quen với tác giả Vy Thanh trong một trường hợp khá hy hữu. Cách đây tưởng cũng đến 7-8 năm, trường trung học Phan Thanh Giản (Cần Thơ?) có đại hội thế giới của các cựu học sinh ở vùng tôi. Nhân dịp này, vì có người bạn ở xa đến dự đại hội nên kêu tôi đến chơi, tôi đã lái xe đến để gặp anh ở Marriott Hotel ở Dunn Loring, Virginia. Vừa ngồi xuống ở Lobby nói chuyện được mấy câu thì có mấy người cũng sà vào góp chuyện. Khi nghe tên tôi vừa được giới thiệu, một trong mấy bạn mới tới nói ngay: “À anh, tôi có món quà này cho anh!” Rồi ông chạy lên phòng mang xuống một cuốn sách dầy ký tặng tôi.

Phải nói là lúc đầu tôi cũng hơi bỡ ngỡ. Nhìn vào tựa sách, Lớn Lên với Ðất Nước, và tên tác giả, Vy Thanh, mà tôi chưa được nghe đến bao giờ, tôi chỉ biết lí nhí mấy câu cám ơn và tự nhủ sẽ phải về đọc xem sao. Thì ra đây là câu chuyện của chính tác giả được lồng vào chuyện kháng chiến ở miền Nam mà tôi, một người gốc Bắc, chỉ có một vài khái niệm mơ hồ. Ðọc sử, tôi cũng đã được biết lõm bõm về các phong trào chống Pháp trước năm 1945 rồi những ngày sôi động vào tháng 8 tháng 9 năm 1945 khi các lực lượng quốc gia ra nắm chính quyền sau ngày Nhật đầu hàng, song vì Phạm Ngọc Thạch đem Thanh niên Tiền phong về dưới trướng Trần Văn Giàu nên Việt Minh đã cướp được quyền lãnh đạo ở miền Nam để rồi đương đầu với quân Pháp đang trở lại, trước ngày toàn quốc kháng chiến (19 tháng 12, 1946) cả hơn năm trời.

Sách của tác giả Vy Thanh. (Hình: Người Việt)

Bởi chỉ biết lơ mơ, rất không đầy đủ về lịch sử của một phần đất nước này nên mang cuốn sách về, tôi đã vùi đầu vào đọc với nhiều thích thú. Tác giả dẫn tôi từ ngày ông còn là một cậu học sinh tiểu học mà vì bồng bột yêu nước, đã đi theo tiếng gọi của non sông (hay nói đúng hơn là của bạn bè) làm một cuộc phiêu lưu vào vùng kháng chiến với sự bao che của gia đình và xóm làng (khi đó vẫn còn ở trong vùng Pháp chiếm). Có vào chiến khu rồi cậu bé mới khám phá ra nhiều sự bẽ bàng như thấy những sinh hoạt hủ hóa của cấp lãnh đạo (vẫn bè phái, bơ sữa, gái trai) mà không thể thoát ra được. Sau, cậu được chính kháng chiến “cơ cấu” vào thành để được học lên, đậu tú tài rồi được học bổng sang Mỹ với dụng ý sẽ thành một người nằm vùng cao cấp ở trong chính quyền Quốc gia-cũng tựa như Phạm Xuân Ẩn do Mai Chí Thọ sắp xếp để được sang Mỹ du học về báo chí rồi về làm gián điệp trong nhiều năm (mà không bị lộ).

Nhưng chính những năm ông đi học ở Mỹ (Michigan) đã làm cho ông mở mắt về chế độ dân chủ và những tự do, nhân quyền của nó. Nên khi lấy xong bằng tiến sĩ (Ph.D.), ông đã về phục vụ ở Bộ Giáo Dục Sài Gòn mà tìm cách xa lánh những người “handlers” ông, tức những người được đối phương cài vào để lèo lái, sử dụng ông. Một thế đứng không hẳn là dễ chịu, chắc rồi!

Tuy quyết định cuối cùng trong đời ông là ở về phe quốc gia song kháng chiến vẫn là một phần đời của ông. Ông có lẽ vẫn còn hãnh diện về tinh thần yêu nước (chống Pháp) của ông và phần nhỏ nhoi mà ông có vai trò ở trong đó: Ông không có tham gia như một người lính ra chiến trận và vai trò khiêm tốn của ông trong kháng chiến hình như cũng chỉ là lo cho một thư viện lưu động trên các sông rạch ở vùng kháng chiến. Song quyển sách của ông giá trị ở chỗ hình như ông đã đọc rất kỹ tất cả những gì mà phía bên kia đã viết, nhiều tác phẩm dưới dạng hồi ký, về cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, và vì ông được huấn luyện như một học giả nên ông đã ghi chép rất đầy đủ, có phân tích, đối chiếu, so sánh, ghi xuất xứ, v.v. Tóm lại, đối với ai muốn được có một cái nhìn tổng quan khá chi tiết và cân nhắc về kháng chiến chống Pháp ở miền Nam thì nên tìm đọc cuốn sách “Lớn Lên với Ðất Nước” này của Vy Thanh. Nó khác khá nhiều cái nhìn từ Hà Nội mà giờ đây được xem như là “version” chính thức của cuộc chiến đó!

KYTB, lò đào tạo cán bộ sách động của Quốc Tế Cộng Sản

Bẵng đi một thời gian khá lâu, một hôm tôi nhận được điện thoại từ tác giả Vy Thanh. Ông chia sẻ: “Tôi mới có cuốn sách, tính nhờ anh Tôn Thất Thiện đọc và điểm sách nhưng anh Thiện lại bảo tôi nên hỏi anh xem sao. Bởi anh Thiện giờ đây cũng đã có tuổi và ngưng viết từ mấy năm rồi.”

Hỏi ra mới biết, đó còn là một cuốn sách đồ sộ, gần 700 trang, mà đây mới chỉ là Tập 1 [1]. Cuốn sách có một cái tựa hơi lạ vì viết bằng mấy chữ viết tắt trong tiếng Nga, KYTB, mà người không để ý sẽ dễ đọc thành “Ka Y grec Tê Bê” (trong tiếng Pháp) hay “Kê Wai Ti Bi” (trong tiếng Anh) trong khi đích thực thì mấy chữ đó phải đọc thành “Ka U Tê Vê” trong tiếng Nga (hay vắn tắt thành “Kút vơ”). Ðây là mấy chữ đầu của trường Ðại Học Cộng Sản Lao Ðộng Phương Ðông trong tiếng Nga (Kommunisticheskii Universitet Trudjashikhsja Vostóka), một trường chuyên đào tạo các cán bộ sách động (“agit prop”) cho Quốc Tế Cộng Sản (tức Komintern) và do đó, đã có một tầm quan trọng và ảnh hưởng thật tai hại (có thể xem là một tai họa) đối với lịch sử cận đại của Việt Nam.

Với một cuốn sách viết về Liên Xô và có nhắc khá thường xuyên đến những tên Nga (tên người, tên trường, tên các định chế, v.v.) thì lẽ ra, G.S. Tôn Thất Thiện hay nhà báo Nguyễn Minh Cần ở Mạc Tư Khoa là người đúng hơn cả để đọc và điểm sách. (Sở dĩ tôi biết được chuyện này là vì ngoài ông Nguyễn Minh Cần, sống lâu năm ở Nga và còn là một nhà làm từ điển hàng đầu giữa hai tiếng Nga-Việt, G.S. Tôn Thất Thiện sau khi đi định cư ở Canada cũng đã chịu khó học tiếng Nga để có thể nghiên cứu trong tiếng này.) Nhưng vì G.S. Thiện đã thoái thác và đề nghị tôi (ông cho là tôi có “trí nhớ của một con voi,” une mémoire éléphantine) và cũng vì tôi khá tò mò nên tôi đã nhận lời đọc cuốn sách mới của tác giả Vy Thanh.

Một đề tài không hoàn toàn mới

Sự thực, cuốn sách mới của Vy Thanh không phải là một khám phá mới hoàn toàn. Năm 2000, gặp G.S. Anatoli A. Sokolov ở Mạc Tư Khoa, tôi đã được ông tặng cuốn sách Komintern i Vyetnam (“Quốc Tế Cộng Sản và Việt Nam”) của ông mà có tiểu tựa là “Việc đào tạo cán bộ chính trị người Việt ở các trường cao đẳng Liên Xô trong các năm [19]20 30” (do Viện Ðông Phương Học Hàn Lâm Khoa Học Nga in ra năm 1998). Cuốn sách gồm sáu chương cả thảy:

Chương 1: “Nền giáo dục Cộng Sản trong Quốc Tế Cộng Sản” (trang 11-21).

Chương 2: “Những bước đầu” (trong đó có đoạn 2.1 nói về “Những tiếp xúc đầu tiên giữa Phan Bội Châu và những người Cộng Sản Xô Viết ở Trung Quốc” xảy ra trước cả khi Hồ Chí Minh sang Liên Xô, được mô tả trong đoạn 2.2, nhưng Phan Bội Châu đã có cái linh tính khôn ngoan và chính xác là không nên tiến tới) (trang 22-35).

Chương 3: “Học viên Việt Nam ở các trường cao đẳng Liên Xô” (trang 36-66).

Chương 4: “Ban giảng huấn và cán bộ khoa học” (trang 67-75).

Chương 5: “Chặng cuối công tác của các trường cao đẳng Liên Xô” (trang 76-83).

Chương 6: “Hồ Chí Minh và kinh nghiệm giáo dục CS Liên Xô” (trang 84-92).

Sau sáu chương này là phần cước chú (trang 93-122). Ngoài ra còn có:

“Phụ đính 1” liệt kê tên của 54 học viên Việt Nam với tên thật của họ và bí danh bằng tiếng Nga cũng như thời gian họ ở Mạc Tư Khoa (trang 123-157);

“Phụ đính 2” nói về “Những chiến sĩ Việt Nam tham dự trong cuộc phòng thủ Mạc Tư Khoa” (trang 158-160);

“Phụ đính 3” giới thiệu các “Giảng viên, cộng tác viên và nghiên cứu sinh” (trang 161-169);

“Phụ đính 4” nói đến “Kho lưu trữ về Việt Nam” (trang 170-75), và cuối cùng;

“Phụ đính 5” trích dẫn một số đoạn văn của Hồ Chí Minh (như “Nhật ký đắm tàu,” v.v.) (trang 176-179).

Tầm quan trọng của cuốn sách khai phá này có được ghi ở một bản tóm lược bằng tiếng Anh ở cuối sách, trong đó tác giả cho biết mấy điểm chính như:

1. Việc đào tạo các cán bộ Cộng Sản Việt Nam ở Mạc Tư Khoa chủ yếu được thực hiện ở ba trường: Ðại Học Cộng Sản Lao Ðộng Phương Ðông (KUTV), Viện Nghiên Cứu Khoa Học các Vấn Ðề Dân Tộc và Thuộc Ðịa và trường Quốc Tế Lê Nin (International Lenin School).

2. Trong khoảng 60 học viên Việt Nam được huấn luyện ở Mạc Tư Khoa từ 1925 đến 1938 có Hồ Chí Minh, Trần Phú - tổng bí thư đầu tiên của đảng CS Ðông dương, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập và Nguyễn Thị Minh Khai là những nhân vật nổi bật của phong trào CS lúc đầu ở Việt Nam, và hai “giáo sư” sau này trở thành học giả nổi tiếng của CSVN, Nguyễn Khánh Toàn và Trần Văn Giàu. Ðây là những thành phần “ưu tú” của đảng CSVN sau này.

Sau khi cuốn sách của ông Sokolov ra đời, G.S. Tôn Thất Thiện cũng như ông Nguyễn Minh Cần đã khai thác cuốn sách để viết một số bài trên Thế Kỷ 21 (ở Cali) như về những bí danh của Hồ Chí Minh (tới 150 bí danh), về những người được huấn luyện để thành tay sai đắc lực của Cộng Sản Quốc Tế ở Việt Nam (bắt đầu từ Hồ Chí Minh), và về cả những “chiến sĩ Việt Nam” tham gia trong trận chiến phòng thủ Mạc Tư Khoa trong Thế Chiến II chống lại Hitler.

Những đóng góp nổi bật của Vy Thanh

Tưởng thế thì đề tài đã được vét cạn rồi song ai nghĩ thế thì hoàn toàn sai lầm. Có vào cuốn sách của tác giả Vy Thanh mới thấy tất cả công lao của ông.

Mặc dầu ông có dùng những kết quả nghiên cứu của ông Sokolov, tác giả Vy Thanh đã có những đóng góp rất đáng kể vào đề tài nghiên cứu này. Tỷ dụ, đứng về mặt trình bày, sách của ông Vy Thanh cũng có những chương tương đương với sách của ông Sokolov như “[các] trường đào tạo cán bộ sách động CS” (chương 2, trang 43-157), “Chương trình đào tạo cán bộ sách động CS” (chương 3, trang 159-285), “Học viên Cộng Sản Ðông Dương tại Liên Xô” (chương 4, trang 287-550) song ta có thể thấy ngay, dựa vào số trang, là sách của ông Vy Thanh dầy dặn, đầy đủ hơn sách của người đi trước ông.

Như khi ta nói về các trường đào tạo cán bộ Cộng Sản của Cộng Sản Nga (nhóm Bolshevik) thì ngoài những trường mà ông Sokolov có nói đến ở trên, tác giả Vy Thanh lại còn nhắc đến và mô tả đầy đủ các trường tiền thân của mấy trường đó mà có lúc Cộng Sản Nga đã cho thành lập ở Ý (Capri và Bologna) và ở Pháp (ở Longjumeau, ngoại ô Paris, mà Lenin vì lúc bấy giờ dốt tiếng Pháp nên dịch “jumeau,” người sinh đôi, thành “jument,” con ngựa cái, khi dịch sang tiếng Nga) với đầy đủ hình ảnh và dẫn chứng. Sau khi về nước, Lenin cũng còn cho mở những trường huấn luyện khác như ở Sverdlov trước khi có mấy trường trên kia ở Mạc Tư Khoa.

Song chương đồ sộ nhất trong tập đầu cuốn sách KYTB của Vy Thanh là chương 4, tương đương với chương 3 trong cuốn sách của G.S. Sokolov, vì nếu chương trong sách của ông Sokolov chỉ có 30 trang (trang 36-66) thì chương 4 trong sách của ông Vy Thanh (cùng đề tài) lại lên tới 263 trang (từ trang 287 đến 550) nghĩa là dài gần gấp 10 lần, chứng tỏ một sự nghiên cứu, bổ sung, thêm thắt thật là phong phú.

Bằng cách nào?

Trước hết, nếu ông Sokolov chỉ dựa chủ yếu vào văn khố Nga ở Mạc Tư Khoa để nhận diện được 54 người thì tác giả Vy Thanh đã đi lục vào văn khố hải ngoại của Pháp (Archives nationales d'Outre mer) ở Aix en Provence để tìm ra tới 80 người. Ðây là những “fiches” của Mật thám Pháp (S reté) ở ngay Pháp, Hà Nội, Sài Gòn và đôi khi cả ở Trung Quốc theo dõi những cá nhân này hay những bản tự khai của một số trong đó, mà có bản dài đến cả trăm trang. Dùng những tài liệu văn khố này là những tài liệu đương thời, tác giả Vy Khanh đã đối chiếu được tên tuổi, hành tung của hầu hết những người có tên trong danh sách của ông Sokolov.

Xong ông lại dựa vào những nguồn thông tin công cộng mà Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra về những người của họ từ Hồ Chí Minh trở xuống, tức hàng trăm cuốn sách, đôi khi khá mâu thuẫn, viết về người này hay người khác. Và sự thật dễ bật ra từ những sự so sánh, đối chiếu các nguồn tin. Giá trị cuốn sách của tác giả Vy Thanh nằm ở chỗ đó. Ta chỉ cần lật qua lật lại một số tiểu sử được ghi nhận trong sách, đủ thấy tầm quan trọng của cuốn KYTB như các mục về:

Bùi Công Trừng (s. 1905), tên Nga Gia-o hay Dao (trang 300-303 trong sách).

Dương Bạch Mai (s. 1904), tên Nga Bourof hay Burov (trang 309-318).

Hà Huy Tập (s. 1906), tên Nga Sinikine hay Sinichkin (trang 328-333).

Hoàng Ðình Giong (s. 1904 hay 1907), tên Nga Van Tan (trang 338-377), một vị tư lệnh địa phương khá nổi với đầy đủ hình ảnh và phóng ảnh các tài liệu.

Lê Huy Doãn, tức Lê Hồng Phong (s. 1902), tên Nga Mikhail Litvinov (trang 381-396).

Nguyễn Văn Dựt (hay Long) (s. 1909), tên Nga Svan hay Svans (trang 412-416).

Nguyễn Thị Khai, còn có tên là Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Thái Lan, La Copine v.v. (s. 1912), tên Nga là Phan Lyan (trang 429-464) với đầy đủ hình họ, phóng ảnh các tài liệu.

Nguyễn Khánh Toàn (s. 1905), tên Nga Minin hay Minine (trang 477-483).

Nguyễn Văn Trân (không phải “Nguyễn Văn Trấn”) (s. 1908), tên Nga Prigornyi hay Frigorni (trang 483-491).

Nguyễn Thế Vinh (s. 1904), tên Nga Tap Khi Khen (trang 496-499), sau bị chính Việt Minh giết.

Trần Văn Giàu (s. 1911), tên Nga Ho Nam (trang 515-525).

Trần Văn Lắm (s. 1902), tên Nga Al'tman (trang 527-530).

Trần Ðình Long (s. 1904), tên Nga Pevzner (trang 530-534).

Trần Phú (s. 1904), tên Nga Likvei hay Li Kvei (trang 537-540), v.v.

Cũng nhờ xem những tài liệu này mà ta mới biết thói dùng nhiều bí danh của Hồ Chí Minh là học từ các trường đào tạo cán bộ của Nga. Nhưng tuy gian, Hồ Chí Minh hay nói đúng hơn là Nguyễn Ái Quốc (hay Quốc) thời bấy giờ lại có thói đặt bí danh theo tên một số cô bồ hay vợ của mình: Tỷ dụ, T. Lan mà ông dùng để viết cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện ca tụng mình thì có lẽ là lấy từ tên (Trần hay Nguyễn) Thái Lan là một bí danh của Nguyễn Thị [Minh] Khai, vợ của ông khi đi họp Komintern ở Nga vào năm 1935 (sau được gán cho Lê Hồng Phong để giữ hình ảnh một người “cha già” dân tộc hy sinh cả hạnh phúc cá nhân cho lý tưởng độc lập dân tộc). Làm như thế là một cách để nhớ đến tên “người đẹp” của ông ta.

Cũng tương tự, có thấy chữ viết của Nguyễn Thị [Minh] Khai thì mới biết lối viết “f” cho “ph” hay “z” cho “d trên” hoặc “gi” mà người ta tưởng là một đặc tính của Hồ Chí Minh thì chính thật lại là học của Nguyễn Thị [Minh] Khai, như ta có thể thấy nơi hai trang 460 và 461 chụp phóng ảnh chữ viết của cô này, có ít nhất cũng từ năm 1933.[ 2]


Chú thích:

[1] Trong bài điểm sách này chúng tôi chỉ nói đến Tập 1. Tập 2, sắp ra nay mai, theo tác giả sẽ gồm những chương như “Sự thật đi học làm cách mạng vô sản” (Chương 5) và nhất là “Ảnh hưởng cách mạng vô sản trên đất nước Việt Nam” (Chương 6) để kết thúc bằng một Chương kết (“Những thay đổi gọi là cách mạng”).

[2] Ngoài những ưu điểm khá hiển nhiên của cuốn sách như có rất nhiều hình và hình màu, cộng thêm phóng ảnh của nhiều tài liệu hiếm có, hay một sách dẫn theo alphabet, “52 trang tài liệu tham khảo” (trang 553-605), ba phụ lục, và cước chú chính xác và dồi dào, chỉ có một sơ suất nho nhỏ là các chữ Hán dùng trong sách không được kiểm soát lại kỹ càng nên còn không ít lỗi, như ở các trang 143 (về tên người: như “Li Pèize” chắc hẳn là “Lý Phối trạch” chứ không phải “Lý Bái Trạch”...), 155-156 (không thấy ghi chữ Hán nên không chắc một số tên trong danh sách này đã phiên âm chính xác), 231 (“Táo Jiàn” thì không thể nào là “Tào Lực” được), 391 (“Xu Jìnfàn” là “Từ Tiến phạm” chứ không thể là “Hứa Kiệt Phan” và “Li Quanyan” là “Lý Tuyền nhãn,” không phải “Lý Quyền Nguyên”), chẳng hạn.




No comments:

Post a Comment

View My Stats