D. T. Huong
Thứ Sáu, 05/07/2013
Quyền sở hữu: một quyền thiêng liêng
Chết rồi, vẫn mong được sở hữu,
chứng tỏ đây là một quyền rất thiêng liêng. Những đồ tùy táng trong các ngôi mộ
cổ cho thấy người tiền sử đã ước ao và coi trọng xiết bao cái quyền này. Chôn
theo người chết là những vật dụng hàng ngày, những đồ ăn, thức đựng, vật che
thân, đồ trang sức… để người quá cố đủ tiện nghi ở thế giới “bên kia”. Dẫu sao,
những thứ này dùng mãi sẽ hao mòn hoặc sẽ hết. Hậu duệ cần tiếp tục cung cấp để
tiền nhân an lạc. Có lẽ vì vậy nước ta có tục cúng giỗ và đốt vàng mã?
Sẽ tới lúc người ta hiểu ra và
chôn theo người quá cố cả những công cụ sản xuất, ví dụ con dao, ngọn giáo, cái
cung, bó tên, thậm chí cả nông cụ… để người quá cố có thể tự mưu toan cuộc
sống.
Tài sản để mưu sinh quý hơn các
tài sản khác. Đây là nhận thức mà con người trước sau sẽ có. Và có rất sớm:
Ngay từ thời thượng cổ.
Bước nhận thức mới về quyền sở hữu
Gọi là mới, nhưng đã từ 4 hoặc
5 trăm năm nay
1) Quyền sở hữu là một quyền
con người
Nó giúp ta một trong những tiêu
chuẩn để phân biệt con người với con vật. Đó là công lao nghiên cứu của nhà
triết học nhân quyền Jonn Locke (1632 - 1704). Để được xem là một con người,
phải có 3 quyền cơ bản: Quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Không thế,
không ra “con người”.
Hãy bàn riêng về quyền sở hữu.
2) Quyền sở hữu (đúng nghĩa)
phải gồm 3 quyền hợp thành
Các nhà triết học thời Locke và
sau ông đã phân tích để mọi người hiểu thấu đáo rằng, khi sở hữu một tài sản -
ví dụ một ngôi nhà - phải gồm đủ 3 quyền: Chiếm hữu (hay nắm giữ); sử dụng và
định đoạt (hay quyết định) đối với tài sản đó. Nói đơn giản, một người được
thuê canh giữ một ngôi nhà chỉ có quyền nắm giữ nó (để bảo vệ nó), mà không có
quyển sử dụng và càng không có quyền định đoạt nó (bán, tặng hoặc phá hủy nó).
Nhưng khi ông ta thuê ngôi nhà đó để ở, ông có thêm quyền sử dụng, nhưng vẫn
chưa có quyền định đoạt. Muốn sở hữu đúng nghĩa, ông ta phải tự làm nhà hoặc
mua nhà. Khi đó, ông mới có đủ 3 quyền, nói lên sự sở hữu.
Ai cũng cần đất để ở
Lãnh thổ, đất đai Việt Nam là
sở hữu của toàn dân Việt Nam vì dân tộc này từ bao đời đã kiến tạo nên, nắm
giữ, bảo vệ và sử dụng mảnh đất này.
Sở hữu đất ở là nguyện vọng
ngàn đời của mọi cá nhân và mọi dân tộc.
Ai cũng sống trên mặt đất và
cần có một diện tích đất để sống. Dân vạn chài hoặc những dân tộc xa xưa sống
trên cây (để tránh thú dữ) thì dưới chân họ vẫn là đất.
Quyền sở hữu cá nhân một mảnh
đất để trú ngụ là quyền con người, không đợi ai ban phát.
Thời phong kiến, đất đai cả
nước là của vua, do vua “thống nhất quản lý”. Vua có quyền ban phát đất đai,
nhưng đó là thời chuyên chế, người dân dưới chế độ này chưa đáng gọi là
“người”. Khi được vua ban phát đất thì tất nhiên chỉ có quyền sử dụng và trao
đổi với nhau cái quyền này mà thôi. Không thể đưa văn tự mua đất ra để tránh bị
vua thu hồi khi vua cần đất. Đã có quyền ban phát, tất nhiên vua có quyền lấy
lại (thu hồi), kể cả quyền đàn áp để lấy lại (nay gọi là cưỡng chế)…
Nông dân càng cần đất để sinh tồn
Sở hữu đất đối với người nông
dân, đang chiếm 2/3 số dân, càng là quyền thiêng liêng. Vì đó là sở hữu phương
tiện sinh lợi duy nhất, để có thể sinh tồn. Quyền sở hữu đất quý gấp trăm lần
sở hữu cái cày, con trâu và gấp ngàn lần sở hữu cái bát hoặc cái rổ. Nông cụ và
trâu bò sẽ vô dụng nếu không có đất để chúng phát huy tác dụng. Do vậy, bị tước
đoạt quyền sở hữu đất, người nông dân đau đớn như bị tước đoạt mạng sống.
Câu bất di bất dịch trong Luật Đất Đai
Đã sửa chục lần, nhưng dẫu có
sửa trăm lần thì câu sau vẫn bất di bất dịch:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
do nhà nước thống nhất quản lý.
Nó tồn tại dai dẳng đến nỗi ai
cũng thuộc.
Không khó lắm để vạch ra tim
đen của các tác giả viết ra cái câu “chơi chữ” này.
- Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân. Nghe khá êm tai, dễ bị lừa.
Khốn nỗi, phải là “toàn dân” mới có quyền sở hữu đất đai. Chớ từng cá nhân,
từng hộ gia đình, từng nhóm, từng xóm, từng làng, từng huyện hay từng tỉnh… vẫn
chưa phải “toàn dân”. Vậy, làm sao dám đòi quyền sở hữu đất đai? Đó là về lý
lẽ. Nhưng… thực tế, nếu tập hợp được 20 hay 40% nông dân đồng loạt đòi quyền sở
hứu đất đai (một quyền làm người) thì các tác giả của cái câu “bất di bất dịch”
trong Luật kia, sẽ mất đất chôn thây.
- Nhà nước quản lý đất cho dân. Dân là chủ; nhà nước “của dân, do dân, vì dân”
chỉ là người quản lý. Họ được ông chủ thuê mượn để quản lý tài sản quý nhất -
tài sản sinh lợi - của chủ. Thì ra, thoạt xem, đây vẫn là quan hệ Chủ - Tớ. Quả
là mỵ dân có nghề.
Dù chỉ là người quản lý, nhưng
nhà nước vẫn phải có một số quyền nào đó, để có thể làm quản lý.
Chẳng cần đợi ai giao quyền,
nhà nước ta cứ tự nhận (và đã thực thi) 4 quyền mà Luật Đất Đai không cần úp
mở, như sau đây:
1) Quyền ban phát đất. Trong Luật, người ta gọi là quyền “giao đất” cho
đỡ chướng. Đầy tớ tuyên bố từ nay đất đai không thuộc sở hữu tư nhân nữa, mà là
“toàn dân” - dù trước đó mảnh đất có nguồn gốc nào. Trong phút chốc, 90 triệu
dân mất quyền sở hữu đất. Thay vào đó, người dân được giao một quyển “sổ đỏ” -
chỉ nói lên quyền sử dụng; y hệt như tình cảnh người dân thời phong kiến. Tạm
yên tâm, vì họ vẫn được cày cấy và thu hoạch trên mảnh đất cũ, vẫn được trao
đổi, sang nhượng cho nhau theo giá thị trường. Không ai lường nổi tai họa, cho
tới khi các vị đầy tờ thực thi quyền thứ hai của mình. Gần đây nhất, các trí
thức chính thống còn tán tụng rằng “quyền sử dụng đất có giá trị như quyền tài
sản”. Nghe bùi tai đấy chứ?
2) Quyền thu hồi. Nhận “sổ đỏ” tức là thừa nhận mình đã được ban
phát đất, dù là khai hoang mà có, dù là mua được hoặc do tổ tiên để lại. Tức là
thừa nhận có thể bị thu hồi. Ban phát thì giả, nhà nước chỉ cần in ra một tờ
giấy (sổ đỏ) để phát; nhưng thu hồi thì rất thật, dù là thu hồi “có bồi
thường”. Mảnh đất thân yêu sẽ ra đi vĩnh viễn để rơi vào tay những thế lực cố ý
trở thành thù địch của dân.
3) Quyền định giá bồi thường. Luôn luôn rẻ mạt và áp đặt. Hai từ này ghép lại,
chỉ có một nghĩa: Ăn cướp giữa thanh thiên bạch nhật.
4) Quyền cưỡng chế, nếu không
chấp nhận giá bồi thường.
Với 4 quyền trên, đầy tớ có
thực quyền làm chủ, đẩy ông chủ danh nghĩa xuống hàng nô bộc, rơi vào thân phận
như tá điền thời phong kiến.
Ý muốn thông qua Luật Đất Đai
trước khi thông qua hiến pháp là một mưu đồ, nhưng tạm thời bất thành. Tên nước
ta vẫn có cụm từ XHCN, nói lên sự kiên định mục tiêu, trong đó đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý là phần quan trọng bậc nhất
của mục tiêu.
No comments:
Post a Comment