Trần
Đình Sử
Viet
Studies 20-7-2013
Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert
Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê
bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát. Phê bình tự phát là
loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một cuốn sách hay thì vỗ đùi
khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một tiếng, hay khi trà dư tửu hậu,
hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê
bình tự phát. Loại phê bình này chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như
phẩy tay, dẫu miệng…đều là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của
các bà quý tộc, các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem,
đó vẫn là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam
Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa, đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét
khen : “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu
thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là phê bình tự phát.
Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng
sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết hết đi
thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận mạnh mẽ buộc
phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình tự phát thường có ba
nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người đã đọc sách nhận xét đã
đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo, bàn tán, thực ra là nói mò. Hai
là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái
nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh
chóng bị thay thế, thiếu bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác,
lại nói theo, số phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ
đi thu thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như
thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp phần định
hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.
Phê bình văn học phát
triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự phân công, và thế là xuất hiện các
loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch. Nhà tư tưởng Khai
sáng Pháp là Voltaire (1694 – 1778) có lần nói: “Chúng ta nhìn thấy, trong các
nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển văn học thì có một số người trở
thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng giống như người ta muốn kiểm tra các
loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người
chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không
phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb
Tam Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này của
Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành
mạnh cả. Nó là nghệ thuật phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi
nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên
thú y kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa,
không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp kiểm
dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng Tử đã lựa
hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung Hoa cổ đại, chọn
lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng không có gì sai trái,
lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ,
thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng
của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp
nhận thi ca có thể hứng, quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên
305 bài vẫn bao hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp
(427 – 327), sống sau Khổng Tử 100 năm (552- 479) cũng là nhà phê bình kiểm
dịch. Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học )
đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.
Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy
phê bình chuyên nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê
bình kiểm dịch mà Voltaire đã nói. Ở phương Tây sau thế kỉ XVII, phê bình
kiểm dịch chuyển sang thành phê bình học thuật, hàn lâm, đưa phê bình văn học
lên các đỉnh cao thế giới. Còn ở các nước phương Đông ta thì chuộng kinh
nghiệm, và vẫn lẹt đẹt đi sau người ta, đặc biệt là phê bình kiểm dịch ngày một
hoành hành lợi hại. Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí
hình thức, hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm
đến giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu
tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.
Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis
XIII là Richelieu đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất
đắc dĩ Viện Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy
nhất rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học ra
đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng không hợp
chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn sĩ không mấy
người bị đem đi chôn.
Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện
chức năng phát hiện các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là
lối đọc văn cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều định, phản loạn, nhằm
khép đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra
vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi đúng sự
thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung Quốc, đã có hàng
chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn tự ngục giết chết 200
người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong kiến nước ta cũng thế. Trong
các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị,
đến cách mạng văn hóa, phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu
hiệu của tư tưởng phong kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống đảng,
chỉ ra ai là kẻ thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại,
nhiều người tự tử. Diêu Văn nguyên, một trong lũ bốn tên là nhà phê bình kiểm
dịch khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao, thế
mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao, phải đi lao
động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch, chỉ ra các biểu
hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại, bôi đen chế độ... Ở nhiều giai đoạn,
loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt
tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện
kể năm 2000 ,Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng
bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có
vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào
cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu
tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người
kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên
tạp chí “Nghiên cứu văn học”, số 3 – 1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê
bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báo “Nhân Dân”, Quân Đội nhân dân”, “Tiền
phong”, “Cứu quốc”, “Thống nhất”, “Độc Lập”, “Thủ đô Hà Nội”.., hầu hết đều ghi
tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh Tuân bị cách chức Giám
độc nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ thủy sản, làm chuyên viên cá nước
lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục hồi.
Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch
có lịch sử lâu đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan
điểm nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các
tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,…đều bị cấm,
nhưng Báu vật của đời lại được giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình
kiểm dịch tuy có tính chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất
lượng thực tế có nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu
quả không thể sửa chữa được.
Phê
bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như sau:
Thứ
nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình
kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách quan để
kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn ngoài chợ. Nguyên
tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường dựa vào để phát hiện “dịch
bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu
tư tưởng của mình.
Thứ
hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm
trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ hãi, gây
không khí bất an trong đời sống xã hội.
Thứ
ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê
bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai trái, chỉ
tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may quan tâm số phận
những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ thì còn tiếc thương gì
nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị
giản lược.
Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm
dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân
Văn Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan
của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khuăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi
trụy ở chỗ nào?
Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó
cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại
phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao
nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới
tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn
tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.
Có thể nó cũng là một loại loại phê bình,
nhưng không phải phê bình văn học.
17 – 7 - 2013
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 19-7-13
-----------------------------------------
Lời
dẫn của Phạm Thị Hoài: Đọc bài tiểu luận sau
đây, nhiều lần tôi bật cười vì cái hài hước ẩn trong giọng văn kiềm chế của một
nhà nghiên cứu hàn lâm, một nhà sư phạm: GS Trần Đình Sử đã giảng dạy Lí luận
Văn học hơn hai mươi năm tại Trường ĐHSP Hà Nội, nơi ông cũng từng làm Chủ
nhiệm khoa Ngữ văn. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và
Công nghệ cho cụm công trình nghiên cứu về Thi pháp học. Từ mười năm nay ông là
ủy viên Hội đồng Lí luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương.
Với một sự nghiệp như vậy, những nhận định của ông
về nền “phê bình kiểm dịch” trong bài viết này không phải là đúc kết của một người
đứng bên lề. Tôi tin rằng một “bộ phận không nhỏ” thuộc giới nghiên cứu và phê
bình văn học trong môi trường chính thống ở Việt Nam hiện nay, dù không hay
chưa hiển ngôn, chia sẻ quan điểm của ông. Tôi xin nồng nhiệt quảng cáo bài
viết này đến tận màn hình của các công chức văn học đang cố gắng lo tròn bổn
phận kiểm dịch “luận văn Mở Miệng“.
Phạm
Thị Hoài
Nguồn: Blog Trần
Đình Sử
Xem thêm:
Trần Đình Sử
No comments:
Post a Comment