07-07-2013
Trên mạng Bauxite hôm nay 7-7-2013 có
đăng bài viết Phong trào Nhà Ánh Sáng của Tự Lực Văn Đoàn của Đỗ Quý Toàn. Trong bài có nhắc tới buổi ra mắt công chúng đầu tiên
của Hội Ánh Sáng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, vào 9 giờ tối Thứ Hai, 16 tháng Tám
năm 1937.
Nhân đây
xin mời bạn đọc có quan tâm tới vấn đề này đọc thêm hai tài liệu có liên quan :
1/ Diễn văn đọc tại Nhà hát Lớn hôm 16 Aout, buổi
họp đầu tiên của hội Ánh Sáng của Nhất Linh và
2/ bài tường thuật của Khái Hưng có liên quan tới sự
kiện này.
Cả hai đều in trên Ngày nay số 73,
22-8-1937.
Vẫn biết rằng, giờ đây,
muốn đọc lại Phong hóa Ngày nay, bạn đọc có thể tự mình tìm trên mạng.
Song với thiện ý muốn để những bạn đã quá bận bịu đỡ tốn công sức, và những gì
Nhất Linh Khái Hưng đã nói đã viết có thể đến với chúng ta nhanh hơn, chúng tôi
cứ đưa lên đây. Văn bản được chuẩn bị theo kiểu làm ăn thủ công cũ tức là
chụp theo bản Ngày nay ở các Thư viện và đánh máy lại. Dù
người sưu tầm đã soát xét lại kỹ, song nếu tài liệu dưới đây còn chút nào thiếu
sót, kính mong các bạn lượng thứ.
Ý NGHĨA XÃ HỘI CỦA
"ÁNH SÁNG"
Kính trình các ông, các bà, các anh em, chị em...
các bạn,
Tôi thay mặt Uỷ ban tạm thời hội Ánh Sáng tỏ lời
trân trọng cảm tạ ông Thống Sứ Yves Châtel là người đã hứa nhận đỡ đầu cho hội,
và cảm ơn hết thẩy các bạn hữu đã đến để tỏ lòng hăng hái với một công cuộc có
tính cách xã hội, nhân đạo, một công cuộc gây dựng đầu tiên của người An Nam.
Cũng như hết thảy các bạn đến đây, tôi cảm động vì
thấy một điều hằng tha thiết bấy lâu sắp đến ngày thực hiện, và khi anh em cử
tôi ra để bầy tỏ cái ý kiến của hội Ánh Sáng, tôi rất lấy làm bối rối vì cái ý
nghĩa của hội ta rộng rãi quá, không biết nói sao cho đầy đủ được.
Đã từ lâu, những người nhiễm học mới, nhiều lần được
thấy, khi đọc sách, đọc báo, xem tranh ảnh hoặc trong các rạp chiếu bóng hay
trong khi du lịch nước ngoài, những cảnh đời khác hẳn cái cảnh đời ảm đạm, buồn
nản của dân quê trong những túp nhà hang tối - chung quanh mình - những người
đó chắc đã nhiều lần nẩy ra trong trí câu hỏi đau đớn này:
- Liệu có thể đổi khác được không?
Nhưng ai nấy cũng chỉ chua chát nhận ra rằng việc ấy
khó khăn quá, gần như không thể được.
Câu hỏi trên kia nảy ra trong óc các bạn chỉ như một
tia sáng yếu ớt loè ra trong đêm tối dầy đặc, chỉ như một giây phút hy vọng
biến ngay thành một nỗi thất vọng dài và chua sót.
Nhưng bao giờ cũng vậy: đã nghĩ đến thay đổi thì rồi
sẽ có sự thay đổi.
Nỗi thất vọng riêng từng người nay đã sắp biến thành
một mối hy vọng chung, mối hy vọng chung ấy tức là Ánh Sáng.
Nhiều tia yếu ớt hợp lại sẽ thành một luồng ánh sáng
lớn. Dấu ánh sáng mà các bạn gài trên ngực như một cái vinh dự, vẽ ba tia sáng
xuyên qua một vòng tròn tối đen: tức là diễn cái ý nghĩa đó một cách giản dị và
mạnh mẽ. Một người không làm nổi, thì nhiều người sẽ làm nổi - Sức mạnh của hội
ta là ở sự đông người và cũng vì thế cái tính cách hội ta có phần khác với các
hội hiện có.
Không phải đông người là được nhiều tiền. Tiền là
cần, nhưng tiền thôi - không đủ. Ta có thể tưởng tượng một nhà giàu có hảo tâm
bỏ ra một lúc mấy triệu bạc, dựng lên rất nhiều nhà mới cho dân nghèo ở. Những
việc ấy cũng chỉ là một cái chớp nhoáng.
Nhà nát, tiền hết, cảnh hang tối lại hiện nguyên
hình cảnh hang tối.
Cái gì bền chặt, còn mãi mãi, không phải là những
căn nhà dựng lên, mà chính là cái ý muốn chung của chúng ta, của dân quê, cái ý
muốn có sự thay đổi mãi mãi, cái lòng nhiệt thành với công việc ta làm, lúc nào
ta cũng hết sức, chắc ở mình và chắc ở tương lai.
Hội đông người, lại gồm toàn những người quả quyết
phấn đấu, cái sức mạnh ấy có thể thắng nổi hết các sự khó khăn.
Song những sự khó khăn ấy, trước khi hô hào lập hội,
anh em chúng tôi cũng đã từng cân nhắc. Câu hỏi thường luẩn quẩn trong trí
chúng tôi là câu hỏi này:
- Làm nhà cho dân nghèo và thợ thuyền ở, nhưng rồi
sau... sẽ ra sao? Chín phần mười nhà Annam ta là nhà hang tối. Làm thế nào cho
đủ được?
Tôi cũng nhận rằng như vậy rất đúng. Vì thế mà
hội ta không phải là một hội chỉ cốt lập ra để làm phúc. Đem một người yếu vì ở
khổ sở về săn sóc, chữa chạy cho khỏi rồi lại thả người ta về chỗ ở khổ sở, rồi
người ta lại đau yếu như trước, tức là làm một việc từ thiện, chỉ biết làm một
việc từ thiện thôi, không cần xét đến căn nguyên và trừ tiệt cỗi rễ của những
sự khốn khó ở đời.
Việc làm phúc là một việc hay, nhưng ngoài cái ý
nghĩa làm phúc ấy, hội ta còn gồm có một ý nghĩa khác, không phải tốt đẹp hơn
nhưng cần có để cho xã hội thay đổi và bởi cần có nên hội ta- như trên tôi đã
nói- khác với các hội hiện có ở trong nước. Đó là cái ý nghĩa xã hội của hội
Ánh Sáng.
Vì có cái ý nghĩa xã hội ấy nên hội sẽ không làm
những nhà gạch đắt tiền. Kể ra, bằng số tiền hội quyên được, hội Ánh Sáng có
thể dựng lên rất nhiều nhà gạch, cực kỳ sang trọng, mời một số ít dân quê và
thợ thuyền đến ở. Nhưng thế để làm gì? Vì không bao giờ, thật không bao giờ,
hội lại có một số tiền lớn để làm thế nào không còn người nghèo ở ngoài nữa,
không còn người nghèo ở nhà hang tối, ngày ngày ra đứng trước những khu nhà
gạch sang trọng mà hội đã dựng lên đó, nhìn vào thèm thuồng cái cảnh may mắn
của những người nghèo ở trong, nẩy ra những ý tưởng so sánh bùi ngùi, mà không
có cách gì cho đời sống riêng của mình khá hơn lên được. Nếu như vậy thì việc
làm phúc cho một số ít ấy chỉ làm tủi lòng một số nhiều không được cùng hưởng.
Hội ta vì thế sẽ chỉ toàn dựng những nhà tranh, nhà
gỗ là thứ nhà thông thường trong nước. Hai nhà kiến trúc sư, ông Nguyễn Cao
Luyện hiện nay sang Pháp vắng, và ông Hoàng Như Tiếp trên ba năm nay đã từng
cùng chúng tôi bàn bạc mãi về vấn đề nhà cửa Ánh Sáng.
Điều cần nhất, là làm thế nào tỏ ra rằng nếu ta chịu
để ý tìm tòi, nếu ta có ý muốn ở một căn nhà ánh sáng thì cũng bằng ngần ấy
tiền, ta có thể có một căn nhà ánh sáng được.
Nhưng khu nhà hội sẽ dựng lên khắp trong nước, ở gần
các tỉnh, ở trong các làng, từ Nam ra Bắc, sẽ là những nhà mẫu biểu lộ sự tìm
tòi có khoa học của các kiến trúc sư có chí.
Để một người nghèo vào ở ít lâu rất sung sướng trong
một căn nhà gạch sang trọng không có ích lợi gì về sau. Nhưng một người nghèo
vào ở căn nhà tranh Ánh Sáng, lúc ra ngoài người đó không phải là người
nghèo khi trước nữa. Họ nhận ra rằng ở trong một căn nhà rẻ tiền, họ cũng đã
sống một cách dễ chịu, sống một cách văn minh. Họ không thể lại quay về với
những căn nhà hang tối được nữa. Họ sẽ ngẫm nghĩ:
- Không cứ gì sang trọng nhiều tiền mới là sung
sướng. Ta không cần giàu có, ta cũng có thể dựng lên một căn nhà sáng sủa, đẹp
đẽ cho ta, cho vợ con ta như trong các trại Ánh Sáng, ta cũng ở dễ chịu như một
nhà giàu có.
Họ biết rồi. Họ biết tức là họ có thể tự sức đưa
mình ra khỏi nơi tối tăm.
Họ lại có thêm một sự cần mới, một quan niệm mới: họ
tuy nghèo nhưng cũng có quyền và nhất là có cách sống một đời đáng sống.
Chính người đương đứng nói chuyện với các bạn đây,
hai mươi năm về trước đã sống trong một túp nhà hang tối bên cạnh những túp nhà
khốn khổ hơn ở một số chợ quê, và mới đây chưa đầy hai mươi hôm đã ăn mặc quần
nâu áo nâu để cố sống thử lại trong hơn một tuần lễ cái đời lam lũ cùng với
những người lam lũ khác trong một căn nhà hang tối.
Cái nhà ẩm thấp, hôi hám mà tôi ở đó, tôi nhận ra
rằng tôi có thể không cần phải tốn nhiều tiền đổi thành một căn nhà sáng sủa,
sạch sẽ, có cả vẻ mỹ thuật nữa. Còn những người lam lũ cùng ở với tôi thì không
có thể ngờ được như thế.
Nếu dân quê họ cũng biết như tôi, như các bạn đây,
thì sự thay đổi của xã hội về mặt hình thức rất mau chóng, mà sự thay đổi phải
có tính cách ấy mới lâu bền và sâu xa, không có vẻ phô trương như mấy căn nhà
gạch lộng lẫy dựng vào giữa đám... nhà tranh vẫn lụp xụp như thường, như có ý
khoe khoang một cách ngạo nghễ: Có sự thay đổi trông thấy.
Thật ra, như vậy, không có sự thay đổi gì cả.
*
Tôi mới nói đến nhà Ánh Sáng. Cách sống trong những
gian nhà đó cũng phải là một cách sống xứng đáng với nhà, một cách sống sáng
sủa như những căn nhà sáng sủa.
Đổi khác cái quan niệm về sự sống của họ đi cũng là
một việc to tát và có lẽ khó khăn hơn việc đổi khác nhà cửa của họ. Vẫn biết
cơm ăn, áo mặc, nhà ở đồ dùng bao giờ cũng cần, nhưng họ vẫn cho là những cái
cần phụ, chẳng qua phải ở thì ở, phải ăn thì ăn, cách sống thế nào xong thôi,
không can hệ gì. Họ có những cái bổn phận mà họ cho là to tát hơn, quý trọng
hơn những sự cần về vật chất. Họ quá để lên cao những bổn phận mà dân các nước
Âu Mỹ không có, như bổn phận đối với quỷ thần, đối với làng xóm, đối với
họ hàng.
Họ làm ăn vất vả có được dư đồng tiền ư?
Đáng lẽ để tiền ấy sửa lại cái nhà cho sáng sủa đẹp
đẽ, may quần áo mặc cho ấm, sắm đồ đạc dùng cho dễ chịu, thì họ lại đem dùng
mua một chức nhiêu, xã (đó là vì chuộng hư danh), làm cỗ bàn để đăng cai (đó là
vì ông thần hoàng) hay là làm cỗ giỗ, cỗ đám ma rất phí phạng (đó là vì họ
hàng). Chừng ấy cái họ cho là bổn phận. Làm xong những bổn phận ấy thì họ vừa
sạt nghiệp.
Bây giờ làm thế nào cho họ có cái quan niệm vật chất
về cuộc đời là tự khác những cái kia sẽ mất. Phải bỏ, quá bỏ cái đời mê muội,
huyền bí của họ đi.
Họ chú trọng về tinh thần quá, (tinh thần đây không
phải là tinh thần lợi cho sinh kế như tinh thần người các nước Âu Mỹ) bây giờ
phải làm thế nào cho họ chú trọng về vật chất (vật chất đây không có ý nghĩa gì
xấu xa) phải cho họ biết rằng những cái về vật chất là những cái cần thứ
nhất trong đời họ. Họ có biết thế thì bao nhiêu tâm lực của họ mới xoay về một
chiều: là giúp họ có được những món cần ấy.
Nếu cứ ở thế nào cũng được, ngủ thế nào cũng được,
sống thế nào xong thôi, thì không bao giờ có sự hơn lên được. Dẫu hội Ánh Sáng
có dựng lên những nhà sáng sủa cho họ ở, những nhà gạch bền chặt nữa, cũng
chẳng bao lâu - tôi xin nhắc lại lần thứ hai - cảnh hang tối lại hiện nguyên
hình cảnh hang tối.
Vậy hội ta còn một công việc nữa là khuyên dạy họ
những cách ăn ở thế nào cho đáng là dân văn minh, và đem đến cho họ những cái
đẹp, cái vui của cách sống văn minh, những cái vui rẻ tiền, người nghèo cũng có
thể hưởng được, nếu biết hưởng.
Cách ăn ở mới cũng như những điều phát minh mới về
kiến trúc sẽ đem ghi vào sách gửi cho chi nhánh các nơi để thực hành và bảo ban
họ. Thực hành và bảo ban cách nào là tuỳ ở các uỷ ban của hội. Tôi chỉ
xin nói ngay rằng hội ta sẽ đến với họ như một người bạn thân, lúc nào cũng dịu
dàng tìm cách thay đổi họ, không bao giờ ức bách cả.
Về việc này phải kiên tâm và nhất là bao nhiêu khó
nhọc mình phải chịu lấy. Tôi xin dẫn một thí dụ cỏn con: nếu người ở rút nan
phên để dùng vào việc riêng thì hội viên uỷ ban trông nom sẽ xuống tận nơi yên
lặng thay những nan phên khác vào, nếu có ai để con mình làm bẩn lối đi chung
thì tức khắc sai phu dọn sạch mà không được nói họ, mắng họ nửa lời. Làm như
thế lâu lâu họ sẽ cảm động, hối hận và bỏ dần cái tính cẩu thả, ích kỷ của họ
đi.
Bao nhiêu tính cách cần có để trở nên một dân văn
minh, mà người mình vẫn thiếu xưa nay, hội sẽ dần dần bảo ban họ.
Tất có người nói: dạy họ lau quét nhà cửa, xếp dọn
đồ đạc, ăn ở ngăn nắp, song những điều ấy có phải là những điều cần đâu.
Tôi xin trả lời: Rất cần, vì đó là một thứ để định
cái mực sống cao thấp của một dân tộc. Người ta sống để làm những cái ấy cũng
như sống để học cho trí thức mở mang. Dân nào luộm thuộm bẩn thỉu về cách ăn ở
là dân mọi rợ, dân văn minh bao giờ cũng ngăn nắp và sạch sẽ trong cách sống.
Người Hoà Lan đi đâu là đem chổi quét, giẻ lau và nước rửa đến đấy. Họ có thì
giờ để trở nên một dân một nước văn minh mà vẫn có thì giờ để lau mặt bàn bóng
loáng như gương và sàn nhà bóng loáng như mặt bàn. Người Nhật Bản tuy bận bịu
theo kịp dân các nước Âu Mỹ mà vẫn có thì giờ tắm một ngày ba lần và sửa sang
nhà cửa cho có vẻ mỹ thuật. Dân mình không phải vì thiếu thì giờ mà chỉ vì lười
hay nếu không lười thì không thích sự ngăn nắp, sạch sẽ, không biết cách trang
hoàng nơi ăn chốn ở.
Hội sẽ cho họ cái tính tốt ấy, làm cho họ thích và
dạy cho họ biết cách. Cũng như ở bên các nước Thuỵ Điển, Na Uy, họ để ý đặc
biệt đến cách sống của hạng bình dân, hội cũng sẽ tìm tòi cho dân một nền mỹ
thuật bình dân, rẻ tiền nhưng vẫn là mỹ thuật. Lại dạy cho họ hiểu biết mỹ
thật. Họ có những thứ đẹp đẽ rẻ tiền nhưng cần nhất là họ phải hiểu để được
hưởng- vì họ cũng có quyền hưởng- cái vui thú sống một đời tuy nghèo nhưng vẫn
đẹp đẽ và tươi sáng.
Cách ăn ở mới, nền mỹ thuật bình dân mà từ trước đến
giờ không ai để ý tìm tòi cho dân nghèo phải là một hội như hội Ánh Sáng mới có
thể đủ sức đem đến cho họ được.
Nói đến đây, tôi không sao không tự hỏi:
- Dân quê ăn chưa đủ, nghĩ làm gì đến cách ở?
Nghĩ như vậy thì không bao giờ hết việc: việc ăn
cũng như việc học là hai việc rất cần, nhưng hội ta lập ra không phải để giải
quyết hết các vấn đề khó khăn của xã hội. Công việc của hội ta chỉ là một công
cuộc xã hội trong nhiều công cuộc xã hội khác - hiện chưa có nhưng ta sẽ làm
dần.
Đó, các bạn coi, cái ý nghĩa của hội ta rộng rãi là
như vậy.
Dựng nhà cho dân nghèo ở, và tìm tòi một lối kiến
trúc mới có thể làm kiểu mẫu theo được- cần nhất là theo được- cho những dân
nghèo khác.
Tìm tòi những cách ăn ở mới, một nền mỹ thuật bình
dân và bảo ban, khuyên dạy họ cho họ biết, họ hiểu, họ làm gương cho người khác
để nâng cao cái mực sống của dân lên ngang hàng với mực sống của dân các nước
văn minh.
Ý nghĩa, mục đích hội là như vậy nhưng không thể cứ
có một cái mục đích hay là đủ cho hội sống một cách mạnh mẽ. Chính chúng ta mắt
đã thấy biết bao nhiêu hội có mục đích ghê gớm mà về sau thành những hội mục
nát cả. Muốn nâng cao trình độ của dân, muốn khai hoá họ mà không thấy khai hoá
được tí nào.
Vậy sự cần nhất là cái ý muốn chung của chúng ta,
coi công việc ta sắp làm đây - công việc thay đổi xã hội - là một lý tưởng của
đời ta, một lẽ để ta thấy cái vui, cái phấn khởi sống ở đời.
Việc khó khăn, song những cái khó khăn ấy chính là
để thử sức phấn đấu của bọn trẻ chúng ta. Ta đã nhất định bước đi, là đi không
bao giờ nản lòng, tiến, tiến mãi đến một tương lai tốt đẹp hơn. Ta không bao
giờ được mãn nguyện, vì có không mãn nguyện thì mới cố sức mãi cho một ngày một
hơn lên.
Có hai điều chúng ta nên tránh: một là để lòng nguội
lạnh, uể oải dần, hai là để cho sai lạc cái ý nghĩa cần thiết của hội ta.
Tôi rất mong rằng làm một việc có tính cách mới, hội
sẽ có những người có trí mới, dùng những phương pháp hành động mới. Chúng ta
lại nên nhớ rằng cái sức mạnh của hội ta là ở số đông, dựa vào số đông ấy, hội
Ánh Sáng sẽ có một nền tảng chắc chắn, không bao giờ nghiêng đổ.
Xin các bạn nhiệt liệt cổ động cho hội Ánh Sáng để
hội có hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu người. Thêm một hội viên tức là thêm
một tia sáng chiếu rõi vào nơi tối tăm, thêm một ít vui cho cái đời buồn trẻ
của dân nghèo, thêm một sự thay đổi cho cái xã hội rất chậm thay đổi của ta.
Các bạn sẽ thấy một cái mộng của đời mình biến thành
sự thực, các bạn sẽ được cái vui thấy hội Ánh Sáng đem ánh sáng chiếu rõi vào
tận các làng xa, xóm hẻm, và cái xã hội thảm đạm tối tăm của ta đây, nhờ đó, không
bao lâu sẽ biến thành một xã hội đẹp đẽ, vui tươi, một xã hội ánh sáng.
Nguyễn Tường Tam.
Tại
Nhà Hát Lớn
BUỔI HỌP ĐẦU TIÊN CỦA
ÁNH SÁNG
Hơn hai nghìn thính giả, ngoài hai nghìn người phải
về vì hết chỗ. Bài trí giản dị và uy nghiêm hùng tráng, xưa nay chưa từng thấy.
Không khí trẻ trung.
Tối thứ hai 16 Aout vừa rồi anh em chị em hội
viên hội Ánh Sáng đã họp lần đầu tiên ở nhà Hát Lớn.
Mà cũng lần đầu ta nhận thấy chữ "lớn"
không đúng nghĩa và như đem dùng một cách hơi ngoa ngoắt để tả cái nhà hát của
thành phố Hà Nội. Vì hôm ấy số hội viên hội Ánh Sáng vào nhà hát đông gấp hai
số ghế của nhà hát, và số hội viên hội Ánh Sáng hết cả chỗ đứng nên không vào được
cũng gần đông bằng số hội viên đã được vào.
*
Tám giờ hơn, rời bờ hồ Hoàn Kiếm đi lại phía nhà
hát, chúng tôi thấy bốn luồng hào quang chiếu vọt từ một vệt đen lên thẳng trời
trong.
Tuy biết đó là bốn lá cờ Ánh Sáng treo từ nóc nhà
hát xuống tới đất, tôi vẫn không khỏi kinh ngạc đứng sững ngắm hồi lâu. Và tôi
nghĩ thầm: "Ý chừng các hoạ sĩ đã sơn đen hoặc phủ vải thâm trùm kín những
bậc nhà hát để biểu hiện cõi tối tăm sắp được Ánh Sáng chiếu rồi.”
Nhưng khi đến gần tôi thấy cái vệt đen ấy động dậy
rồi hiện thành một đám người rất đông mà ánh đèn nhà hát phía sau làm cho nổi
bật và đen ngòm. Mấy người hấp tấp chạy bảo nhau: "Dễ tới vạn!"
*
Tôi len mãi mới vượt qua được mấy chặng hàng rào
người để vào tới cái hàng rào sắt của nhà hát. Anh em hướng đạo đã tề chỉnh xếp
hàng đứng giữ trật tự.
Tám giờ rưỡi. Bắt đầu mở cửa cho hội viên vào.
Có thể nói một làn sóng tràn qua chỗ đê vỡ, nhưng
làn sóng đẹp mắt quá, vì có đủ các màu, màu hồng, màu đỏ của cái áo tân thời
tha thướt, màu trắng của y phục anh em thiếu niên, màu xanh, màu nâu của quần
áo anh em thợ thuyền và dân quê, màu đen của áo lương, áo the, khăn lượt: Đủ
các hạng người trong xã hội Việt Nam.
Làn sóng tuy đẹp mắt nhưng ồ vào hơi mau và hơi dữ
một chút nên mấy anh em hướng đạo phải cố sức hàn ngay lại chỗ đê vỡ. Rồi xếp
xong chỗ ngồi cho người đã vào, mới hé cửa để mời người đứng ngoài vào dần.
*
Chín giờ kém 15. Trong nhà hát không còn một chỗ nào
để... đứng nữa. Cửa nhà hát đành phải đóng chặt. Phiền nỗi những người đã lọt
qua hàng rào sắt chen chúc trong hiên nhà hát. Chúng tôi ái ngại cho các bà các
cô mồ hôi chảy nhễ nhại làm trôi mất cả phấn. Nhưng không vì thế mà các bà các
cô nản chí bỏ ra về, và bỏ rơi nụ cười trên cặp môi tươi thắm. Cũng có nhiều
hội viên sốt ruột gõ tay vào các cửa kính rồi nói một tràng rất dài, nhưng qua
kính chúng tôi chỉ thấy cái mồm lắp bắp mà không nghe rõ tiếng gì.
Những hội viên trong hàng rào sắt vào xong, lại đến
lượt những hội viên ngoài hàng rào sắt. Đối với những người này chúng tôi không
thể sao chiều được, vì nếu để vào cả thì nhà hát sẽ trở nên một hộp cá dầu.
Chúng tôi đành đem giấy xin lỗi ra phát. Hai nghìn tờ mà chúng tôi đã in sẵn -
vì đoán chắc thế nào số hội viên đến dự cũng đông quá - chỉ trong năm phút anh
em hướng đạo đã phát hết mà vẫn chưa đủ khắp hết số người đứng đợi. Thực xưa
nay chưa từng thấy hội viên đến tìm vào hội đông như thế.
- Ông Ngày Nay!
Nghe gọi tôi quay lại và nhận ra ông hội viên vừa
đến toà báo Ngày Nay lấy giấy mời đi dự thính.
- Tôi ở Hà Nam lên tận Hà Nội chỉ cốt được nghe diễn
thuyết Ánh Sáng như tôi đã nói với ông ban nãy, chẳng lẽ ông lại để tôi không
được nghe!
Thế là chúng tôi đành phải hé cửa mời ông ấy vào.
Nhưng một người theo liền sau, giọng khẩn khoản:
- Tôi ở tận Huế cũng vừa mới ra chiều hôm nay để
nghe diễn thuyết Ánh Sáng, chẳng lẽ các ông lại để tôi không được nghe!
Rồi đến lượt mấy ông giáo ở Thái Bình nhắc lại câu
trên.
Anh Tô Ngọc Vân ghé tai thì thầm bảo tôi:
- Tôi ở tận Cao Mên cũng mới ra mấy hôm nay để dự
ban bài trí hội Ánh Sáng đây.
Và anh mỉm cười, cho là câu khôi hài của anh hóm
hỉnh lắm. Mà hóm hỉnh thật!
*
Ai nấy vội vàng chạy đi lấy chỗ hoặc ngồi, hoặc
đứng, hoặc chắp tay đi quanh hiên vì đã hết cả chỗ ngồi lẫn chỗ đứng. Anh
Nguyễn Gia Trí thở dài trông theo nói một mình:
- Làm gì mà hấp tấp thế? Thì hãy đứng lại một giây,
ngắm bức tranh vẽ "cảnh tối tăm khốn cùng" của người ta đã nào!
Tôi cười đáp:
- Cũng may đấy, vì nếu những em bé theo mẹ đến dự
thính mà trông thấy bức tranh của anh thì chúng nó sẽ khóc thét lên, làm trùm
lấp cả tiếng diễn giả.
Ý chừng anh Trí cũng hiểu rằng đó là lời khen ngợi
nên cười một cách rất khoái trí.
*
Có người đến đưa cho tôi một tập giấy nhận vào hội
Ánh Sáng kèm với một bức thư. Tôi mở ra đọc thì đó là thư của một bạn ốm đã năm
năm nay. Vì không đến dự thính được, anh viết mấy lời rất cảm động để xin
lỗi. Anh hứa sẽ nằm nhà tâm niệm cầu khẩn cho buổi diễn thuyết đầu tiên
của hội Ánh Sáng được có kết quả hoàn toàn.
Anh là một người rất sốt sắng với hội Ánh Sáng, và
tuy ngày đêm nằm trên giường bệnh, anh cũng rủ được cho hội tới gần trăm hội
viên, phần nhiều là thiếu, là nữ trí thức cả: theo ý anh, cần phải có
nhiều phụ nữ vào hội.
*
Trong phòng nhộn nhịp ồn ào. Bỗng một câu từ máy
truyền thanh phát ra:
- Xin những ông nào cứng chân cứng tay chịu khó đứng
dậy nhường chỗ cho các bà các cô yếu đuối.
Một dịp "ồ!" cất lên phản đối, và một cô
thân thể nở nang đáp lại liền:
- Chúng tôi chẳng cần ai nhường chỗ!... Sẵn lòng
đứng như thường!
- Phải lắm!
Đó là câu bình phẩm của một trang thiếu niên đã có
chỗ ngồi khá tốt. Nhưng tiếng ồn ào vụt im khi anh Nhất Linh bắt đầu diễn
thuyết. Tôi có cái cảm tưởng xe hoả vừa đỗ lại ở một ga.
Tới đoạn anh Nhất Linh nói: Ban kiểm soát của hội
Ánh Sáng sẽ đem sự nhẫn nại dịu dàng ra để đối phó với cái tính cẩu thả, ích kỷ
của dân trại Ánh Sáng sau này, -- hết thảy các thính giả vỗ tay rất ròn, để tỏ
rằng diễn giả nói rất đúng và rất hợp ý mình, nghĩa là đã nêu ra một tính rất
thông thường mà riêng mình không có.
Anh giáo Tôn Thất Bình nói vui quá. Nhưng vẻ mặt anh
không được vui mỗi khi anh thoáng nhìn thấy Tô Tử. Ý chừng anh sợ Tô Tử vẽ hai
cánh tay ra ràng của anh.
Còn anh Phạm Văn Bính thì hơi làm cho hội viên hội
Ánh Sáng lo lắng, tuy bài diễn văn của anh rất màu mè và đầy đủ. Họ tự nhủ
thầm: "Anh ấy mới là thư ký tạm thời mà đã nói dài thế, vậy khi anh ấy làm
thư ký thực thụ, anh ấy sẽ nói dài đến đâu!"
Cô Thanh Quý kế tiếp lên diễn đàn để phản đối anh
Bính một cách hùng hồn, kịch liệt: Bài diễn văn của cô dài chỉ được ngót năm
phút, nghĩa là non một phần mười bài diễn văn của anh Bính. Nghe đâu cô Thanh
Quý doạ kỳ sau nếu còn lên diễn đàn thì cô sẽ cố ngắn hơn nữa.
Sau rốt đến lượt anh Hoàng Như Tiếp, kiến trúc sư.
Cố nhiên anh nói về kiến trúc, nghĩa là anh cãi rằng trời sinh ra anh không
phải chỉ để xây nhà Hát Lớn và nhà Hoả Lò như người ta tưởng, mà còn để dựng cả
những nếp nhà Ánh Sáng cho dân nghèo, như người ta... không tưởng. Anh Tiếp đã
nổi tiếng là người nói chuyện có duyên. Hôm nay, ngoài sự có duyên, anh còn hóm
hỉnh và khôn khéo nữa.
*
Ông "Anh phô-tô" bảo tôi:
- Chụp ảnh các diễn giả rất khó, vì cái đầu diễn giả
không lúc nào không động, mà ở trong nhà hát lại không được phép dùng maghésium
vì sợ ngạt hơi. Nhưng các thính giả thì dễ chụp quá, có cái ảnh tôi
để tới hai giây mà chắc sẽ không nhoà một tí nào. Các ông, các bà ấy ngồi nghe
yên lặng, chăm chú như bụt cả.
Tôi cũng nhận thấy thế. Hơn nữa, giữa một cảnh tượng
giản dị và uy nghi, có lúc tôi mơ màng tưởng thính giả là một bọn ngoan đạo
nghe giảng đạo ở nhà thờ.
Và tôi chân thành cảm động nghĩ thầm: " Ý nghĩa
Ánh Sáng thiêng liêng như một tôn giáo, hèn gì mà thính giả chẳng kính cẩn ngồi
nghe!"
Sau mỗi bài diễn văn bắt thính giả phải lắng hết
tinh thần, đoàn Sói con lại ra hát một bài ca Ánh Sáng, làm cho cân não ai nấy
dãn ra để chờ bài diễn văn sau. Trong khi nghe hát, Thạch Lam thủ thỉ nói:
- Người mình không bao giờ vui bừa vui phứa như
người Âu tây cả. Giá ở bên Pháp, thì lúc đoàn Sói con hát đến đoạn điệp, tất
thính giả đã khoa tay mạnh bạo hát theo!
Có thế, người mình nghiêm chỉnh quá. Nghiêm chỉnh
đến nỗi giữa bài diễn văn có tiếng vỗ tay khen cũng không bằng lòng, suỵt lấy
suỵt để, làm như thính giả không được quyền ngắt lời diễn giả.
*
Những bài ca làm cho thính giả vui vẻ bao nhiêu, thì
những ảnh chiếu trên màn vải làm cho khán giả buồn rầu bấy nhiêu. Buồn rầu ngắm
những căn nhà hang chuột có nhan nhản ở xứ mình, buồn rầu so sánh những căn nhà
ấy với những nếp nhà tranh sáng sủa, đẹp đẽ của các nước bên Âu-Mỹ.
Đó là thâm ý của ban tổ chức đem trộn lẫn cái buồn
với cái vui để thính giả được có một tính tình vừa phải, không buồn không vui,
hay vừa buồn vừa vui.
Nhưng dẫu sao, rốt cuộc, cái vui cũng thắng cái
buồn, chẳng thế mà lúc đứng dậy ra về, toàn thể thính giả lại giơ tay hoan hô
chúc tụng hội Ánh Sáng bằng những tiếng từ đáy trái tim phát ra.
Lúc ấy ai không bồi hồi cảm động! Ai không sung
sướng cúi nhìn dấu hiệu ba tia sáng cài ở ngực và tự trả lời thầm câu hỏi của
Nhất Linh:
- Có thể thay đổi khác hẳn trước được! Chúng ta đều
tin chắc như thế.
No comments:
Post a Comment