Người dịch: Lan Hương
Hiệu đính: Minh Ngọc
Thứ năm, 06 Tháng 6 2013 14:57
Bài tham luận xem xét vai trò của UNCLOS và luật quốc tế
trong tranh chấp Biển Đông, giải thích các vấn đề pháp lý đặt ra trong Tuyên bố
yêu sách của Philippines, phân tích khả năng tác động của vụ kiện đối với các
yêu sách vùng biển ở Biển Đông.
Tóm tắt
Ngày 22/1/2013, Philippines chính thức thông báo với
Trung Quốc rằng nước này đã bắt đầu thủ tục trọng tài kiện Trung Quốc theo Phụ
lục VII Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển (viết tắt: UNCLOS). Bài tham luận này
sẽ xem xét vai trò của UNCLOS và luật quốc tế trong các tranh chấp Biển Đông và
cụ thể sẽ tập trung vào ý nghĩa của vụ việc mà Philippines khởi xướng. Bài tham
luận sẽ giải thích những vấn đề pháp lý đặt ra trong Tuyên bố yêu sách của
Philippines; phân tích khả năng tác động của vụ việc đối với các tranh chấp
liên quan đến các yêu sách vùng biển ở Biển Đông, trong đó có yêu sách của
Trung Quốc đối với các quyền và quyền tài phán tại vùng biển nằm trong đường
chín đoạn nổi tiếng trên bản đồ Biển Đông của Trung Quốc.
I. CÁC TRANH
CHẤP PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG
A. Các tranh
chấp về chủ quyền đối với các đảo xa bờ
Tranh chấp chính tại Biển Đông liên quan đến chủ quyền
đối với các đảo xa bờ. Trung Quốc, Brunei Darussalam, Malaysia, Philippines và
Việt Nam yêu sách một số hoặc tất cả các đảo ở quần đảo Trường Sa. Trung Quốc
và Philippines yêu sách các đảo tại bãi cạn Scarborough, Trung Quốc và Việt Nam
yêu sách quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Đài Loan yêu sách các quần đảo giống như
Trung Quốc.
Luật quốc tế về thụ đắc và đánh mất lãnh thổ (bao gồm các
đảo) được quy định trong các nguyên tắc và quy tắc của luật tập quán quốc tế.
Trong Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS)[1][1] không có quy định về cách thức xác định quốc gia nào có
yêu sách thuận lợi hơn về chủ quyền đối với lãnh thổ tranh chấp. UNCLOS chỉ quy
định vùng biển nào có thể được yêu sách từ lãnh thổ đất liền (bao gồm các đảo),
cũng như các quyền và quyền tài phán của các quốc gia trong vùng biển đó.
Nguyên tắc chủ đạo của luật quốc tế điều chỉnh việc giải
quyết tranh chấp là tranh chấp giữa hai quốc gia về một vấn đề luật quốc tế
không thể đưa ra tòa quốc tế mà không có sự chấp thuận của cả hai bên tranh
chấp. Do đó, các tranh chấp về việc quốc gia nào có yêu sách thuận lợi hơn về
chủ quyền đối với các đảo tranh chấp tại Biển Đông không thể đưa ra bất kỳ hình
thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba mà không được sự chấp
thuận của tất cả các bên tham gia tranh chấp.
B. Các tranh
chấp liên quan tới Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982
Tất cả các Quốc gia quanh Biển Đông và có yêu sách chủ
quyền đối với các đảo tại Biển Đông đều là thành viên của UNCLOS. Do đó, UNCLOS
đóng vai trò vô cùng quan trọng khi phân tích các tranh chấp pháp lý tại Biển
Đông.
UNCLOS thừa nhận nếu quốc gia nào có chủ quyền đối với
lãnh thổ đất liền, bao gồm các đảo xa bờ, quốc gia đó có thể yêu sách các vùng
biển từ lãnh thổ đất liền và đảo, đồng thời UNCLOS cũng quy định các quyền và
nghĩa vụ của quốc gia ven biển và các quốc gia khác trong các vùng biển khác
nhau.
Khi một quốc gia trở thành thành viên của UNCLOS, trước
hết quốc gia phải chấp nhận các điều khoản giải quyết tranh chấp trong Phần XV
của UNCLOS. Nguyên tắc chung của Phần XV là nếu tranh chấp nảy sinh giữa hai
quốc gia về việc giải thích hay áp dụng điều khoản trong UNCLOS và tranh chấp
không thể giải quyết thông qua tham vấn và thương lượng, bên tranh chấp có thể
đơn phương đưa tranh chấp ra tòa án hoặc tòa trọng tài quốc tế,[2][2] và phán quyết của
tòa án hoặc tòa trọng tài có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý với cả hai bên
tranh chấp[3][3].
C. Tòa án
với thẩm quyền phán xét một tranh chấp theo Phần XV của UNCLOS
Khi quốc gia trở thành thành viên của UNCLOS, hoặc vào
bất kỳ thời điểm nào sau đó, trước hết quốc gia đó có quyền lựa chọn phương
thức thích hợp để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào liên quan tới quốc gia.[4][4] Thông qua việc đệ trình một tuyên bố chính thức lên Tổng thư ký Liên Hợp
quốc, một quốc gia thành viên có thể tuyên bố lựa chọn một hay nhiều các tòa
sau đây: (1) Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS); (2) Tòa án Công lý quốc tế
(ICJ); (3) Tòa Trọng tài được thành lập dựa vào Phụ lục VII của UNCLOS; hay (4)
Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập dựa vào Phụ lục VIII của UNCLOS.
Nếu cả hai quốc gia thành viên của tranh chấp đều lựa
chọn cùng một tòa, tòa đó sẽ có thẩm quyền phán xét vụ việc, trừ khi các bên
chấp nhận lựa chọn cách khác.[5][5] Nếu các quốc gia
thành viên tranh chấp không lựa chọn cùng một tòa[6][6], hay không đưa ra sự lựa chọn[7][7] , thì tranh chấp sẽ được đưa ra trọng tài theo Phụ lục
VII, trừ khi các bên chấp nhận cách khác[8][8].
Cả Trung Quốc và Philippines đều có tuyên bố chỉ ra việc
lựa chọn một tòa cụ thể[9][9] . Do đó, Philippines thiết lập thủ tục trọng tài chống
lại Trung Quốc theo Phụ lục VII.
D. Quyết
định của Tòa trọng tài có tính chất ràng buộc.
Điều 296 quy định bất kỳ quyết định nào do tòa trọng tài
có thẩm quyền theo Mục 2 đưa ra đều là phán quyết cuối cùng và tất cả các bên
tham gia tranh chấp phải tuân thủ. Hơn nữa, quyết định trên chỉ có tính chất
ràng buộc đối với các bên liên quan và trong tranh chấp cụ thể đó[10][10]. Những quy định về các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế cũng áp dụng
tương tự như trên[11][11].
E. Các
trường hợp ngoại lệ của các thủ tục giải quyết tranh chấp trong UNCLOS
Vì một số loại tranh chấp rất nhạy cảm ở một số quốc gia,
điều 298 UNCLOS quy định các quốc gia có thể đưa ra một tuyên bố chính thức gửi
lên Tổng Thư ký Liên Hợp quốc thông báo với tất cả các bên khác rằng nước này
không chấp nhận các thủ tục bắt buộc có thể dẫn tới những phán quyết ràng buộc
theo Mục 2 của Phần XV đối với một số loại tranh chấp. Các loại tranh chấp đó
là[12][12]:
(a) tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng
điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc phân định biên giới biển hoặc liên quan
đến vịnh hoặc danh nghĩa lịch sử;
(b) tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, bao
gồm các hoạt động quân sự do các tàu thuyền và máy bay của chính phủ được sử
dụng cho các mục đích phi thương mại;
(c) tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các thẩm
quyền mà Hiến chương Liên Hợp quốc trao cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc
Năm 1996, Trung Quốc đưa ra tuyên bố chính thức theo điều
298 tuyên bố rằng nước này không chấp nhận hệ thống các thủ tục có tính chất
bắt buộc đưa có thể dẫn tới phán quyết ràng buộc theo Mục 2 Phần XV UNCLOS đối
với bất kỳ loại tranh chấp nào được liệt kê trong điều 298[13][13]. Đây là quốc gia duy nhất tại Biển Đông đưa ra tuyên bố như vậy[14][14].
F. Tranh
chấp liên quan đến các quy định UCNLOS mà tuyên bố của Trung Quốc không loại
trừ
Nếu một tranh chấp nảy sinh giữa một bên yêu sách thuộc
ASEAN và Trung Quốc liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của
UNCLOS mà không nằm trong danh sách loại trừ của Trung Quốc theo điều 298, và
tranh chấp không thể giải quyết thông qua tham vấn và đàm phán, những tranh
chấp đó sẽ được giải quyết bằng các thủ tục bắt buộc đưa ra các quyết định ràng
buộc theo Mục 2 Phần XV UNCLOS.
II. VỤ
PHILIPPINES KIỆN TRUNG QUỐC RA TRỌNG TÀI THEO PHỤ LỤC VII
Ngày 22/1/2013, Philippines chính thức thông báo với
Trung Quốc rằng nước này đã thiết lập thủ tục trọng tài chống lại Trung Quốc
theo Phụ lục VII UNCLOS[15][15].
A. Giới hạn
trong yêu sách của Philippines
Yêu sách của Philippines công nhận rằng Tòa không có thẩm
quyền quyết định hai loại vấn đề pháp lý.
Thứ nhất, yêu sách của Philippines công nhận rằng Tòa
không có thẩm quyền đối với các vấn đề về chủ quyền lãnh thổ.[16][16] Nói cách khác,
Philippines công nhận rằng Tòa không có thẩm quyền quyết định xem quốc gia nào
có yêu sách thuận lợi hơn về chủ quyền đối với các đảo tranh chấp.
Thứ hai, yêu sách của Philippines công nhận rằng Tòa
không có thẩm quyền đối với một số loại tranh chấp, đó là những tranh chấp được
loại trừ khỏi các thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc trong UNCLOS vì Trung
Quốc đã có tuyên bố theo điều 298 UNCLOS.[17][17] Trong Tuyên bố yêu
sách của mình, Philippines tuyên bố rõ ràng rằng nước này biết tới Tuyên bố của
Trung Quốc theo điều 298 UNCLOS theo đó loại trừ một số loại tranh chấp ra khỏi
thủ tục giải quyết tranh chấp ràng buộc, trong đó có các tranh chấp về phân
định biên giới biển và các danh nghĩa lịch sử[18][18] . Philippines cũng tuyên bố rằng nước này tránh đặt ra
những vấn đề hay đưa ra các
yêu sách mà Trung Quốc đã loại trừ trong Tuyên bố của
nước này chiểu theo điều 298, đặc biệt là những yêu sách liên quan đến phân
định biên giới hay danh nghĩa lịch sử.[19][19]
Philippines lập luận rằng có những tranh chấp giữa nước
này và Trung Quốc về việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của UNCLOS
ngoài các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, phân định biên giới hay danh nghĩa
lịch sử. Các tranh chấp đó bao gồm:
· Trung Quốc đã cản trở
Philippines trong việc thực hiện quyền tài phán đối với tài nguyên thiên nhiên
trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines [UNCLOS, điều 56];
· Trung Quốc đã đưa
ra yêu sách thái quá về các vùng biển từ các đảo nhỏ mà nước này tuyên bố chủ
quyền và chiếm đóng vì những đảo này là “đá không thể đảm bảo cuộc sống của con
người hay đời sống kinh tế” theo điều 121 (3) của UNCLOS và do đó không thể mở
rộng vùng ĐQKT hay TLĐ;
· Trung Quốc đã chiếm đóng
bất hợp pháp và nêu yêu sách chủ quyền đối với một số thực thể chìm không phải
đối tượng của yêu sách chủ quyền vì các thực thể đó không phải là đảo, mà đó là
một phần của đáy biển.
B. Một số
vấn đề chính đặt ra trong vụ Philippines
Thông báo và Tuyên bố yêu sách của Philippines đặt ra bốn
vấn đề chính. Vấn đề quan trong nhất là liệu Trung Quốc có đưa ra yêu sách hợp
pháp về vùng biển dựa trên đường chín đoạn, dù đó là chủ quyền đối với các vùng
biển hay quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển đó.
Philippines yêu cầu Tòa trọng tài đưa ra phán quyết rằng Trung Quốc chỉ có thể
yêu sách quyền với các vùng biển tính từ lãnh thổ đất liền (bao gồm các đảo),
và rằng yêu sách từ đường chín đoạn không phù hợp với UNCLOS. Mục tiêu chính
của vụ việc này dường như là nhằm không thừa nhận tính hợp pháp trong yêu sách
của Trung Quốc đối với quyền lịch sử và quyền tài phán trong đường chín đoạn.
Vấn đề thứ hai đặt ra trong Tuyên bố yêu sách liên quan
đến các yêu sách vùng biển tính từ các đảo tranh chấp hiện đang bị Trung Quốc
chiếm đóng, đó là bãi cạn Scarborough và ba đảo nằm trong nhóm đảo Kalayaan
(KIG) mà Philippines yêu sách (đó là các đá Colin (tiếng Anh: Johnson Reef), đá
Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef). Philippines yêu
cầu Tòa đưa ra phán quyết về việc tất cả các “đảo” (là những khu vực đất liền
hình thành tự nhiên và cao hơn mực nước biển khi thủy triều dâng cao) do phía Trung
Quốc chiếm đóng là “đá” chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lý vì chúng không thể
“duy trì đời sống con người hay đời sống kinh tế” theo như quy định tại điều
121(3) UNCLOS. Nước này cũng yêu cầu Tòa khẳng định rằng Trung Quốc đã đưa ra
yêu sách bất hợp pháp đối với các vùng biển ngoài 12 hải lý từ các thực thể đó
và đã can thiệp bất hợp pháp khi Philippines thực hiện các quyền và tự do tại
vùng biển bao quanh bãi cạn Scarborough và đá Colin.
Vấn đề thứ ba đặt trong Tuyên bố yêu sách liên quan đến
các thực thể địa lý trong nhóm KIG hiện Trung Quốc đang chiếm đóng nhưng không
đáp ứng định nghĩa “đảo” theo quy định của điều 121(1) vì chúng không phải là
những khu vực đất liền được hình thành tự nhiên nằm trên mực nước biển khi thủy
triều dâng cao (đó là các đá Vành Khăn (Mischief Reef), đá KenNan (McKennan
Reef), đá Gaven (Gaven Reef), đá Subi (Subi Reef). Philippines lập luận rằng
những thực thể như trên không phải là đối tượng yêu sách chủ quyền và việc
Trung Quốc chiếm đóng là bất hợp pháp vì chúng là một phần thuộc thềm lục địa
của Philippines.
Vấn đề thứ tư đặt ra trong Tuyên bố yêu sách là Trung
Quốc ngăn chặn bất hợp pháp tàu thuyền của Philippines khỏi việc khai thác tài
nguyên sinh vật trong vùng biển “kề cận” bãi cạn Scarborough và đá Colin.
Philippines cũng yêu cầu Tòa đưa ra phán quyết bắt buộc Trung Quốc dừng lại
việc ngăn chặn tàu của Philippines khỏi các hoạt động khai thác nguồn tài
nguyên sinh vật trong vùng nước “kề cận” với bãi cạn Scarborough và đá Colin
một cách bền vững, và không được thực hiện các hoạt động trái với UNCLOS ở các
vùng kề cận với các thực thể trên.
III. CÁC VẤN ĐỀ
THỦ TỤC
A. Tác động
của việc Trung Quốc không tham gia vào thủ tục trọng tài
Khi Philippines thiết lập thủ tục vào ngày 22/1/2013 bằng
việc gửi Thông báo tới Trung Quốc, nước này đã chỉ định Thẩm phán Rudiger
Wolfrum của Đức làm trọng tài. Trung Quốc có 30 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo để chỉ định một trọng tài khác. Tuy nhiên, 19/2/2013, trước khi thời hạn 30
ngày hết, Trung Quốc thông báo nước này từ chối và gửi trả lại thông báo của
Philippines.
Philippines hiện nay có thể yêu cầu Chủ tịch Tòa án luật
biển quốc tế, Thẩm phán Yanai của Nhật Bản, chỉ định một trọng tài cho phía
Trung Quốc-người này phải nằm trong danh sách Trọng tài của Liên Hợp quốc. Ba
trọng tài còn lại sẽ được chỉ định dựa trên thỏa thuận giữa Philippines và
Trung Quốc trong vòng 60 ngày kể từ ngày Philippines đưa ra Thông báo yêu
sách.. Nếu các bên không đạt được thỏa thuận trong thời hạn nói trên, Chủ tịch
Tòa ITLOS sẽ chỉ định ba trọng tài còn lại, những người này phải nằm trong Danh
sách Trọng tài của Liên Hơp quốc[20][20] . Danh sách của Liên Hợp quốc bao gồm những người được
các quốc gia thành viên của UNCLOS chỉ định.[21][21] Chủ tịch ITLOS
cũng có thể chỉ định một trong ba trọng tài làm chủ tịch Tòa xét xử. Sau đó Tòa
này sẽ được hình thành và xác định Quy tắc làm việc.
Việc Trung Quốc đang từ chối tham gia trọng tài sẽ không
ngăn được việc tiến hành các thủ tục trọng tài. Nếu Trung Quốc không xuất hiện
để bảo vệ lập trường, Philippines có thể yêu cầu Tòa tiếp tục tranh tụng và đưa
ra Phán quyết[22][22] (trường hợp này là award – nd). Sự vắng mặt của một trong các bên tham gia
tranh chấp hay việc một bên tranh chấp không tham gia bảo vệ lập trường không
phải là cản trở cho tiến trình trọng tài. Trước khi đưa ra Phán quyết trong
trường hợp một bên tranh chấp vắng mặt, bản thân Tòa Trọng tài phải xác định:
(1) Tňa có thẩm quyền vŕ (2) yęu sách được thiết lập có cơ sở dựa trên thực tế
và luật[23][23].
Philippines đã rất cẩn thận soạn thảo Tuyên bố yêu sách
của mình để bản Tuyên bố chủ yếu xem xét những tranh chấp về giải thích và áp
dụng các quy định của UNCLOS thay vì xem xét những tranh chấp về phân định biên
giới biển. Do đó, đây là dịp tốt để Tòa sẽ quyết định liệu Tòa có thẩm quyền với
các vấn đề đặt ra trong Tuyên bố yêu sách của Philippines, và sau đó Tòa sẽ
tiến hành tranh tụng.
Bên cạnh đó, nếu Tòa đưa ra phán quyết, phán quyết đó sẽ
có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với cả Trung Quốc và Philippines[24][24]. Nếu Trung Quốc không thực hiện phán quyết hay có hành vi trái với phán
quyết, Philippines có quyền đưa ra Tòa án đó và yêu cầu Tòa đưa ra các mệnh
lệnh khác bắt buộc thực hiện phán quyết[25][25]. Điều này cũng có thể khiến cho Trung Quốc rơi vào thế bẽ mặt.
B. Sự can thiệp của các quốc gia khác vào vụ kiện
Khác với các vụ việc do ITLOS hay ICJ xét xử, không có
thủ tục nào cho phép quốc gia thứ ba của UNCLOS can thiệp vào các vụ do Tòa
trọng tài theo Phụ lục VII xét xử. Nói chung, không có quyền can thiệp vào quá
trình giải quyết bằng phương pháp trọng tài, bởi biện pháp này hoàn toàn dựa
trên sự chấp thuận của các bên tham gia. Theo đó, không quốc gia nào có thể can
thiệp vào vụ việc mà không có sự chấp thuận của các bên tham gia tranh chấp[26][26].
C. Giải
quyết vụ việc
Các bên tranh chấp do Phần XV của UNCLOS điều chỉnh có
thể chấp thuận giải quyết vụ việc qua đàm phán trước khi thủ tục trọng tài
chính thức bắt đầu, hay vào bất kỳ thời điểm nào sau đó[27][27]. Do đó,
Trung Quốc có nhiều tháng để đàm phán với Philippiné nhằm đạt được thỏa thuận
giải quyết tranh chấp trước khi Tòa đưa ra phán quyết cuối cùng.
D. Philippines
có thể yêu cầu các biện pháp tạm thời
Trong đoạn cuối cùng của Tuyên bố yêu sách, Philippines
công khai bảo lưu quyền bảo vệ các quyền theo UNCLOS, bao gồm quyền đưa ra yêu
cầu có những biện pháp tạm thời[28][28].
Nếu Trung Quốc đáp lại yêu sách của Philippines bằng cách khẳng định các quyền
của nước này đi ngược lại với các quyền của Philippines, Philippines có thể tìm
giải pháp thông qua các Biên pháp tạm thời từ ITLOS hay Tòa Trọng tài để bảo vệ
quyền của mình, trong khi chờ đợi phán quyết cuối cùng của Tòa Trọng tài.
Nếu Philippines mong muốn yêu cầu các Biện pháp tạm thời
để bảo vệ các quyền trước khi Tòa Trọng tài thành lập, Philippines có thể yêu
cầu các Giải pháp tạm thời từ ITLOS[29][29]. Ngay khi
Tòa Trọng tài được thành lập, nước này phải yêu cầu các Giải pháp tạm thời từ
Tòa Trọng tài.
Trước khi đưa ra các Giải pháp Tạm thời, trước hết Tòa
phải khẳng định rằng Tòa mặc nhiên (prima facie) có thẩm quyền theo Phần XV của
UNCLOS và sự cấp thiết của tình huống yêu cầu phải đưa ra các giải pháp tạm
thời.
IV. TÁC ĐỘNG
CỦA PHÁN QUYẾT ĐỐI VỚI TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
A. Tính hợp
pháp của yêu sách về vùng biển trong đường chín đoạn
Nếu Tòa phán quyết rằng Trung Quốc không được phép đưa ra
các yêu sách vùng biển dựa vào đường chín đoạn, mà chỉ từ đảo, Trung Quốc có
thể phải có nghĩa vụ pháp lý đưa ra yêu sách vùng biển phù hợp với UNCLOS và
yêu sách các quyền và quyền tài phán đối với tài nguyên chỉ trong những vùng
biển tính từ các đảo mà nước này yêu sách chủ quyền. Điều này sẽ gây bất lợi
cho tính chính đáng của bất kỳ yêu sách nào mà Trung Quốc đưa ra đối với các
nguồn tài nguyên trong vùng biển nằm trong đường chín đoạn vốn không nằm trong
vùng biển yêu sách tính từ đảo.
Từ góc độ luật, một phán quyết như vậy chỉ có thể ràng
buộc với hai bên tham gia vụ kiện. Tuy nhiên, một phán quyết như vậy sẽ có lợi
cho Việt Nam, Malaysia, Brunei và thậm chí với Indonesia, vì đường chín đoạn
cũng chồng lấn lên các yêu sách vùng đặc quyền kinh tế của các nước này.
B. Các vấn
đề liên quan đến đảo và đá
Một trong những vấn đề quan trọng khác đặt ra trong vụ
này là liệu các đảo do Trung Quốc chiếm đóng có phải là đá hay không như điều
121 (3), vốn chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lý nhưng không có vùng đặc quyền
kinh tế hay thềm lục địa. Một phán quyết như vậy sẽ có lợi rất nhiều cho
Philippines, đặc biệt là trong vụ Scarborough. Bãi cạn Scarborough nằm trong
vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Bãi cạn bao gồm nhiều
đá chìm nhưng có những đá bao gồm 4-6 đá thường xuyên nằm trên mặt nước khi
thủy triều lên cao. Nếu tòa xem xét về khía cạnh luật liệu những thực thể đó có
phải là đá theo điều 121(3) và chỉ có lãnh hải 12 hải lý hay không, điều này sẽ
trao cho Philippines quyền chủ quyền trong việc thăm dò và khai thác tất cả các
tài nguyên trong và dưới vùng biển nằm ngoài 12 hải lý từ các đá.
Ý nghĩa lớn hơn của phán quyết của Tòa đối với điều
121(3) phụ thuộc vào lập luận của Tòa. Tòa có thể quyết định chỉ đưa ra phán
quyết đối việc xác định liệu các đảo nhỏ do Trung Quốc chiếm đóng có phải là đá
theo điều 121 (3) hay không và có thể sẽ hạn chế phán quyết trong phạm vi xác
định những đặc điểm cụ thể của các đảo này. Điều này để mở câu hỏi là liệu
những đảo lớn của quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc yêu sách và các nước khác
chiếm đóng) về nguyên tắc có được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
hay không. Và điều này có
thể cho phép Trung Quốc yêu sách vùng đặc quyền kinh tế
từ các đảo lớn hơn, tạo ra một khu vực lớn có các yêu sách chồng lấn về vùng
đặc quyền kinh tế.
C. Các vấn
đề liên quan đến bãi cạn lúc chìm lúc nổi và các thực thể chìm
Tòa cũng có thể đưa ra phán quyết liệu một số thực thể do
Trung Quốc chiếm đóng có phải là đảo hay không vì chúng không phải là những
vùng đất liền được hình thành tự nhiên có nước biển bao quanh và ở trên mặt
nước khi thủy triều dâng cao, theo quy định của UNCLOS. Do đó, Tòa cũng có thể
quyết định rằng từ các thực thể đó không được yêu sách bất kỳ vùng biển bao
quanh nó. Tuy nhiên, Tòa cũng có thể xem xét rằng theo UNCLOS, nếu bãi cạn lúc
nổi lúc chìm nằm trong khu vực 12 hải lý của một thực thể đáp ứng được đinh
nghĩa đảo, thì khi đó bãi cạn lúc nổi lúc chìm có thể được sử dụng như là một
điểm cở sở để tính lãnh hải từ các đảo đó.
Philippines cũng yêu cầu Tòa xem xét việc Trung Quốc
chiếm đóng các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hay các thực thể chìm có bất hợp pháp
hay không vì những thực thể đó nằm trong thềm lục địa của Philippines tính từ
quần đảo chính của nước này. Tuy nhiên, nếu Tòa để mở câu hỏi liệu các đảo
trong Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa hay không, Tòa có
thể quyết định rằng Tòa không thể phán xét liệu những thực thể đó thuộc thềm
lục địa của quốc gia nào mà không dính dáng tới vấn đề phân định biên giới biển
và điều này nằm ngoài thẩm quyền của Tòa.
D. Các vấn đề liên quan đến việc can thiệp vào quyền chủ
quyền và quyền tài phán
Philippines cũng đã yêu cầu Tòa đưa ra phán quyết về việc
Trung Quốc can thiệp vào quyền hàng hải và một số quyền khác của Philippines
trong vùng biển quanh các thực thể tranh chấp mà Philippines khẳng định là nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Nếu Tòa quyết định các đảo ở bãi
cạn Scarborough là đá theo điều 121 (3) và không có vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa, khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines sẽ bị giới hạn
tới các đá và lãnh hải 12 hải lý kề cận đá. Nếu Tòa cũng quyết định rằng Trung
Quốc không có quyền lịch sử và quyền tài phán trong đường chín đoạn, thì khu
vực ngoài lãnh hải 12 hải lý được tính từ đá sẽ nằm trong vùng đặc quyền kinh
tế của Philippines. Do đó, Tòa có thể đưa ra quyết định rằng Trung Quốc đã can
thiệp bất hợp pháp vào quyền hàng hải hoặc những quyền khác của Philippines
trong những vùng nước bao quanh bãi cạn Scarborough nằm ngoài lãnh hải tính từ
các đá.
V. KẾT LUẬN
Thứ nhất, các thủ tục trọng tài dường như sẽ tiếp tục mà
không có sự tham gia của Trung Quốc, trừ khi các bên thỏa thuận giải quyết vụ
việc; và khi Tòa đưa ra phán quyết thì phán quyết đó sẽ có giá trị ràng buộc
pháp lý với cả Trung Quốc và Philippines.
Thứ hai, quyết định của Tòa sẽ không giải quyết tranh
chấp liệu quốc gia nào có yêu sách thuận lợi hơn về chủ quyền đối với các đảo
tranh chấp. Vấn đề này không do UNCLOS điều chỉnh.
Thứ ba, phán quyết của Tòa sẽ không giải quyết vấn đề làm
thế nào xác định biên giới biển trong các khu vực có các yêu sách chồng lấn.
Phán quyết sẽ không thể giải quyết vấn đề các đảo nhỏ có hiệu lực như thế nào
trong vấn đề phân định biển. Đó là vì các tranh chấp về phân định ranh giới
biển nằm ngoài thẩm quyền của Tòa.
Thứ tư, Philippines sẽ đạt được chiến thắng to lớn nếu
Tòa kết luận theo hướng có lợi cho họ trong vấn đề quan trọng nhất - đó là
Trung Quốc không thể đưa ra yêu sách đối với vùng biển dựa trên lịch sử và
đường chín đoạn, nhưng giống như Philippines và các bên khác tham gia UNCLOS,
Trung Quốc có thể đưa ra yêu sách vùng biển từ đất liền và các đảo phù hợp với
UNCLOS và luật quốc tế. Thắng lợi về vấn đề này sẽ có ý nghĩa quan trọng không
chỉ với Philippines mà với cả các bên tranh chấp khác.
Thứ năm, cũng có khả năng Philippines sẽ giành thắng lợi
trong vấn đề đường chín đoạn và các vấn đề liên quan đến đá và đảo, nhưng quyết
định của Tòa sẽ không làm rõ những khu vực tranh chấp để khai thác chung. Vì
quyết định của Tòa Trọng tài về điều 121(3) có thể chỉ tập trung vào việc xác
định các đảo do Trung Quốc chiếm đóng là đá không có vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Tòa có thể để ngỏ câu hỏi là liệu Trung Quốc có hợp pháp khi khẳng
định rằng các đảo lớn hơn trong khu vực quần đảo Trường Sa (hiện đang do Đài
Loan, Philippines và Việt Nam chiếm đóng) về nguyên tắc có vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa. Nếu vấn đề này vẫn không được giải quyết, Trung Quốc có thể
hợp pháp khẳng định là nhiều điểm thuộc nhóm KIG là khu vực có yêu sách chồng
lấn.
Cuối cùng, mặc dù không thể dự đoán xem liệu vụ việc sẽ
tiến triển ra sao, hy vọng rằng thông qua quyết định của Tòa Trọng tài, tất cả
các bên yêu sách, kể cả Trung Quốc sẽ làm rõ yêu sách của mình và tuân thủ
UNCLOS. Điều này sẽ tạo điều kiện cho quá trình đàm phán, vốn được nhiều nhà
quan sát tin tưởng rằng là giải pháp dài hạn bền vững nhất cho các tranh chấp
pháp lý tại Biển Đông-gác lại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và cùng khai
thác các tài nguyên tại các khu vực có yêu sách vùng biển chồng lấn.
Tác giả là GS. Robert Beckman, Giám đốc Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học
Quốc gia Singapore. Bài viết được trình bày tại Hội thảo “Biển Đông: vai trò
then chốt đối với hòa bình và an ninh Châu Á-Thái Bình Dương” do Tổ chức Châu Á
và Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu tổ chức tại New York, Mỹ
(13-15/3/2013). Bài gốc tiếng Anh đăng tại trang CIL
Người dịch: Lan Hương
Hiệu đính: Minh Ngọc
[1][1] United Nations Convention on the Law of the Sea, 10/12/, UNTS 1833, tr
3 (có hiệu lực ngày
16/11/1994). Tính đến ngày 19/2/2013, UNCLOS có 165 thành viên (bao gồm cả Liên
minh châu Âu).
[2][2] Điều 286, UNCLOS; tham
khảo Tommy TB Koh và S Jayakumar, “Negotiating Process of the Third United Nations Conference on the Law of the Sea”, Myron H Nordquist, ed., United Nations Convention on the
Law
of the Sea 1982: A
Commentary, vol 1 (Martinus Nijhoff, 1985), đoạn 29-134.
[9][9] Các văn bản
tuyên bố chính thức quy định các lực chọn thủ tục theo điều 287, UNCLOS tham khảo trực tuyến: UN Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea
[13][13] Tuyên bố theo
điều 298 của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (25/8/2006), tham khảo trực tuyến: UN Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea
[14][14] Các văn bản tuyên bố chính thức quy định về các ngoại lê đối với việc
áp dụng Phần XV Mục 2 theo điều 298 UNCLOS, tham khảo trực tuyến: UN Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea, supra note 9.
[21][21] Danh sách đầy đủ các trọng tài được các Quốc gia thành
viên chỉ định theo Phụ lục VII, tham khảo trực tuyến: UN Treaty Collections
[26][26] John Collier and Vaughan Lowe, The Settlement of Disputes in International Law: Institutions and
Procedures (Oxford University Press, 1999)
,tr.208 – 209.
No comments:
Post a Comment