Linh mục ĐINH HỮU THOẠI
Đăng bởi lúc 2:42 Sáng 8/06/13
VRNs (08.06.2013) – Sài Gòn – VP Công lý & Hòa bình (VP CLHB) thuộc Dòng Chúa Cứu Thế
Sài Gòn vừa mới mở cửa hoạt động được hai tháng, mà đã tiếp nhận gần 300 hồ sơ
của dân oan.
Hôm nay, cha Trưởng VP CLHB gởi đến Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng văn thư với nội dung “Chuyển đơn và thông báo hành vi vi phạm pháp luật
của cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền xử lý của Thủ tướng chính phủ”.
Văn thư đưa ra ba trường hợp cụ thể của những người dân
oan tìm đến với VP CLHB. Đó là trường hợp của bà Trang Thị Ngọc Anh ở Thủ Đức,
Sài Gòn. Bà Nguyễn Thị Ba ở Cai Lậy, Tiền Giang. Và ông Lê Văn Bửng và gần 100
hộ khác ở Thủ Dầu Một, Bình Dương.
VRNs xin giới thiệu đến quý vị toàn văn văn thư này.
———
VĂN PHÒNG CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH
DÒNG CHÚA CỨU THẾ SÀI GÒN
38 Kỳ Đồng, quận 3, TP.HCM
Ngày 08 tháng 06 năm 2013
Kính gửi:
ÔNG NGUYỄN TẤN DŨNG
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
V/v: Chuyển
đơn và thông báo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức thuộc thẩm
quyền xử lý của Thủ tướng Chính phủ
Tôi là: Linh mục Đinh Hữu Thoại – Trưởng Văn phòng Công
lý và Hòa bình.
Địa chỉ: 38 Kỳ Đồng, quận 3, Tp.HCM.
Trình bày vụ việc sau:
Nguyên một số hộ dân có đến Văn Phòng chúng tôi trình bày
và cung cấp các hồ sơ, tài liệu chứng minh hành vi “vi phạm pháp luật” của cán
bộ, công chức thuộc thẩm quyền xử lý của Thủ tướng Chính phủ, gây thiệt hại
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Sau khi nghiên cứu, căn cứ qui định pháp
luật, trước mắt, chúng tôi chuyển đơn và thông báo đến Ông Thủ tướng Chính phủ
những trường hợp sau:
1) Trường hợp Bà TRANG THỊ NGỌC ANH, số điện thoại: 0913 603 770.
Nơi ở: 6/9 Nguyễn Văn Lịch, Khu phố 3, P.Linh Tây, Q.Thủ
đức, Tp.HCM.
Theo đúng những gì chính các cơ quan nhà nước: Thanh Tra
Tỉnh, VKS ND Tỉnh, Ban Quản lý đất đai Tỉnh, UBND Tỉnh Báo cáo kết luận Thanh
Tra, Văn bản trao đổi… suốt những năm đầu 1990 xác định :
1. Nguồn gốc đất tranh chấp là thửa đất mang số hiệu 20
(nay là 191 và 192 tờ bản đồ số 1) thị trấn Châu Ổ có điện tích 335,4 m2
là của Bà Trang Thị Ngọc Anh mua của Ông Tạ Lai và bà Hồ Thị Lựu vào năm 1969.
2. Năm 1970 – 1971 Bà Trang Thị Ngọc Anh đã đổ đất, cát,
tôn tạo mặt bằng, xây dựng một nền móng nhà kiên cố có chiều dài 22m rộng 6,7m
= 147,4 m2. Ngoài ra Bà Anh đã xây một nhà bếp, một nhà tắm, một nhà
cầu và một giếng nước trên phần đất đã mua được này.
3. Sau năm 1975, Bà Lê Thị Kim Năng viết “Giấy hiến vĩnh
viễn cho UBND Cách mạng xã Bình Thới 7 căn nhà”. UBND địa phương tiếp quản
nhà đất của Bà Lê Thị Kim Năng, hiến cho Nhà nước (trong đó kể cả một
phòng mặt tiền do Bà thuê) đã lợi dụng sự đi vắng của Bà (Anh) để
quản lý cả phần nhà đất phía sau thuộc quyền sở hữu sử dụng của Bà. Sau
đó, nhà – đất này được giao cho cửa hàng thực phẩm. Ban Quản lý Đất Đai Tỉnh
xác nhận: “Trên thửa đất 191 và 192 tờ bản đồ số 1 thị trấn Châu Ổ (do Ông
Nguyễn Thanh Tuấn và Nguyện Thị Lân mua của cửa hàng thực phẩm huyện Bình Sơn)
nguyên là phần đất có vật kiến trúc, công trình phụ thuộc quyền sở hữu và sử
dụng đất của Bà Trang Thị Ngọc Anh.” .
4. Sau đó, các giấy tờ gốc bàn giao nhà- đất
giữa UBND Huyện với Cửa hàng thực phẩm được Thanh Tra Tỉnh kết luận là “tổng
cộng diện tích được cấp là: 268,25m2. Hiện nay, trên giấy đánh máy
của Quyết định này đã bị sửa bằng mực bút bi: số 130,50m2
sửa thành 318m2 và tổng số diện tích từ 268,25m2 sửa
thành 455,75m2 …
Hiện nay, các chữ số trong Biên bản cũng bị sửa
chữa như Quyết định số 80 của UBND Huyện.” Đoàn Thanh tra đã Kết luận:
“việc tùy tiện sửa chữa chữ số trong Quyết định cấp nhà, đất của UBND Huyện và
trong Biên bản bàn giao của Huyện cho cửa hàng, là hoàn toàn sai trái, vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc hành chính”.
5. Sau đó, Cửa hàng (thành Công ty) Thực phẩm
bán nhà đất này (trong đó có diện tích nhà – đất của Bà Anh) cho 4 tư nhân là
các ông bà Mai, Tuyết, Lân, Ái. Đoàn Thanh Tra kết luận: “Thực chất việc bán
nhà (cơ sở cửa hàng thực phẩm) là do UBND Huyện tổ chức từ khâu nhận đơn, định
giá, đến việc sử dụng tiền, còn Công ty TNHH chỉ đứng tên đại diện cho bên
bán.” Còn người mua thì: “Đến nay các tư nhân mua nhà vẫn chưa làm xong việc
trước bạ, sang tên để chuyển quyền sở hữu”. Và việc mua bán này được xác định
là “UBND Huyện bán 3 căn nhà của Nhà nước đang quản lý là trái với công điện số
229, ngày 18/05/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: «…Cấm không được tiến
hành hóa giá, bán nhà, trả nhà thuộc diện Nhà nước quản lý…» coi như không
có giá trị pháp lý”. Đoàn Thanh Tra cũng kết luận và đề nghị xử lý việc thu
tiền, sử dụng tiền bán nhà không đúng pháp luật. Đồng thời khẳng định: “Như
vậy, bốn đương sự: Mai, Tuyết, Ái, Lân không có quyền sở hữu nào về nhà ở và
quyền sử dụng đất tại khu vực II thị trấn Châu Ổ, huyện Bình Sơn”. Kiến nghị
UBND Huyện trả lại tiền cho người mua.
6. Căn cứ vào Kết luận Thanh Tra, UBND Tỉnh nhiều lần yêu
cầu UBND Huyện hủy bỏ việc mua bán, xử lý các hộ tư nhân, “Thế nhưng, sau khi
có các Quyết định xử lý của UBND Tỉnh thì các đương sự bị xử lý lại tiếp tục
xây dựng nhà ra phía sau, phá hủy nhà ở và các công trình kiến trúc khác
thuộc sở hữu của Bà Anh.
Bà Anh kiện đòi quyền sỡ hữu nhà ở và các công trình kiến
trúc do Bà xây dựng trên đất Bà mua của Ông Tạ Lai đã nhiều năm nay nhưng ở cấp
huyện không giải quyết dứt điểm, nên vụ kiện kéo dài gây nhiều phiền hà cho
đương sự, ảnh hưởng lòng tin của dân đối với Nhà nước và pháp luật” (Báo cáo Kết luận Thanh Tra).
7. Còn về thái độ của 4 hộ tư nhân mua bán
nhà đất này Đoàn Thanh Tra kết luận: “Các ông, bà Tuyết, Mai, Lân, Ái làm đơn
xin sửa nhà, nhưng đã tự tiện tháo đỡ, làm lại nhà mới là vi phạm qui tắc về
sửa chữa, xây dựng nhà ở thành phố, thị xã, thị trấn. Hơn nữa, việc xây
dựng nhà của các ông, bà có tên trên lại vi phạm hành lang bảo vệ đường Quốc
lộ 1A,…. Khi phát hiện việc vi phạm nói trên, các cơ quan có thẩm quyền đã
lập Biên bản yêu cầu đình chỉ và UBND Tỉnh đã có quyết định xử lý, nhưng các
đương sự vẫn không chấp hành, coi thường kỷ cương Nhà nước”.
8. Sự việc rõ ràng như vậy, nhưng đến nay, sau 30 năm đi
khiếu nại, Bà Anh vẫn không nhận được nhà – đất của mình. Trái lại, các hộ dân
“coi thường kỷ cương nhà nước” thì được cấp QSD nhà- đất của Bà Anh. Các Cán bộ
“vi phạm nghiêm trọng pháp luật” thì nay lên chức lên quyền. Bà Anh vẫn phải đi
“kiện đòi quyền sở hữu nhà ở và các công trình kiến trúc do Bà xây dựng trên
đất Bà mua của Ông Tạ Lai đã nhiều năm nay…” chỉ có khác là nay cấp Tỉnh “không
giải quyết dứt điểm, nên vụ kiện kéo dài gây nhiều phiền hà cho đương sự, ảnh
hưởng lòng tin của dân đối với Nhà nước và pháp luật” như cách đây hai mươi
mấy năm.
9. UBND Tỉnh ra Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng
với những căn cứ ngược lại hoàn toàn với những gì đã kết luận là không phù hợp.
Gần đây nhất, Thanh tra Tỉnh có văn bản số 3361/TTT-NV3 ngày 26/06/2012 cho
rằng: “Bà Anh không cung cấp được giấy tờ nguồn gốc có giá trị pháp lý làm cơ
sở khiếu nại”, nên không xem xét giải quyết. Thế thì những nội dung Thanh tra,
Kết luận của chính các cơ quan quản lý Nhà nước, tư pháp Tỉnh… là “không có giá
trị pháp lý” sao? Một nguyên tắc được xác định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng Dân
sự là các văn bản của Nhà nước chứng thực hoặc những tài liệu được một
Bên thừa nhận là chứng cứ mà Bên kia không còn cần chứng minh gì
thêm.
Đúng là nếu không giải quyết cho bà Anh thì chắc chắn “ảnh
hưởng lòng tin của dân đối với Nhà nước và pháp luật” nếu dân còn lòng tin! Ông
Thủ tướng suy nghĩ thế nào về điều này?
2) Trường hợp Bà: NGUYỄN THỊ BA (ủy quyền cho con là Bà TRẦN THỊ HOÀNG)
Cư ngụ: ấp Bình Long, xã Bình Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh
Tiền Giang
Bà viết trong uất nghẹn: “…. Tôi đi kiện đầy đủ cơ sở, bị
một hệ thống cán bộ đại diện cơ quan pháp luật bao che Bà Kỷ cướp đất nhà tôi
là: Chánh án huyện Cai Lậy-Nguyễn Văn Trực, Phó Chánh án Phan Văn Mẫn huyện Cai
Lậy, Thẩm phán Phạm V-Nhịn Cai Lậy, Phó Chủ tịch Phan Minh Hiền Cai Lậy, Huỳnh
V-Ánh Chánh án Tỉnh Tiền Giang, Phó Chủ tịch Trần Thanh Trung Tiền Giang, Phan Thanh
Hiền Sở TN-MT Tiền Giang, UBND Tỉnh Tiền Giang không tiếp dân, để bức xúc đi
các nơi khiếu nại, lại kết tội tôi vi phạm gây rối trật tự công cộng, bỏ tù 2
năm ở cơ sở giáo dục Bàu Giá, Duyên Hải, Trà Vinh-(bị bắt ngày 07/12/2010 trả
tự do ngày 30/09/2012)”. Sự việc như sau:
1. Vào
ngày 08/7/1969, Bà Nguyễn Thị Ba có mua một thửa đất tọa lạc tại ấp 11, xã Mỹ
Thành Nam, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang của ông Phạm Văn Tỷ với số bạc là
40.000 đồng (Bốn mươi ngàn đồng) có nhân chứng là ông Phan Văn Tó và chứng thực
của chính quyền xã chế độ cũ.
Khi mua đất nguyên thửa (không bán chấn) trên phần đất có
một trại cưa và một căn nhà chữ đinh 3m ngang, dài khoảng 10m nằm trên phần đất
mẹ tôi mua. Khi bán nhà- đất cho Bà Ba, Ông Tỷ xin để nhà 3m chữ đinh cho em
gái ông Tỷ là Bà Phạm Thị Kỷ ở và Ông xin cam kết trong giấy mua đất là Bà Kỷ
chỉ “ở đậu cho đến cuối đời, sau này em tôi đi sẽ giao nhà cho bà Ba chứ
không được quyền sang nhượng cho người khác.”
2. Đến năm 2005, bà Phạm Thị Kỷ lấn
chiếm thêm phần đất của Bà Ba và xây nhà kiên cố, nên Bà Ba tiến hành kiện đòi.
UBND xã Mỹ Thành Nam hoà giải ngày 07/4/2005. Địa chính xã và UBND xã Mỹ Thành
Nam khẳng định đúng là đất số thửa 377, diện tích 750m2 của gia đình
Bà Ba. Bà Kỷ cũng thừa nhận ở căn nhà chữ đinh của Bà ba và thắc mắc sao bao
nhiêu lâu nay Bà Ba không đòi. UBND Xã đã trả lời: Vì Anh Bà xin ở đến mãn đời,
nay chưa mãn đời Bà người ta chưa đòi… UB cũng xác định phần đất bà Kỷ sử dụng
không có giấy tờ nào chứng minh đó là đất của bà Kỷ.
3. Hồ sơ khiếu nại của Bà Ba được Phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện Cai Lậy gửi Tòa án nhân dân (“TAND”)
huyện Cai Lậy xác nhận rõ: “Qua nghiên cứu hồ sơ xác định được phần đất bà Ba
tranh chấp, Bà có giấy tờ bán đứt căn nhà và nền nhà có xác nhận của chế độ cũ
vào tháng 7 năm 1969. Căn cứ khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai, thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của TAND”.
4. Thế nhưng, quá trình khiếu nại và
giải quyết không đúng pháp luật bắt đầu từ đây.
Đầu tiên, ngày 20/4/2007, TAND huyện Cai Lậy sau
khi thụ lý đã ra Quyết Định “đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự” số
25/2007/QĐST-DS với lý do “Phần đất đang tranh chấp không có tên trong sổ mục
kê địa chính”. Quyết định đình chỉ này không đúng pháp luật vì, căn cứ
khoản 1 Điều 136; điểm e khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai, trường hợp này, TAND
phải thụ lý tranh chấp vì lẽ gia đình Bà Ba đã có giấy tờ mua bán nhà – đất
được chính quyền cũ xác nhận và việc tranh chấp này liên quan đến nhà (tài sản
gắn liền với đất). Chưa kể, Quyết Định từ ngày 20/4/2007 nhưng mãi hai tháng
sau 21/6/2007 mới giao cho Bà Ba là vi phạm khoản 2 Điều 194 Bộ luật Tố tụng
dân sự (“BLTTDS”).
5. Ngay
sau đó, Bà Ba đã làm đơn khiếu nại Quyết định đình chỉ của TAND huyện Cai Lậy.
TAND huyện Cai Lậy đã ra Quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo số
10/QĐ-TAH ngày 28/6/2007. Quyết định này không đúng vì theo qui định tại
khoản 2 Điều 391, khoản 4 Điều 193 BLTTDS thì vụ việc phải là thụ lý, giải
quyết kháng cáo theo trình tự phúc thẩm chứ không phải thụ lý khiếu nại. Và
thẩm quyền thụ lý giải quyết là của TAND tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Điều
242 BLTTDS.
6. Và không rõ chính xác là ngày nào,
TAND huyện lại có Quyết định giải quyết Đơn khiếu nại số 10/QĐ-TAH đề ngày
22/6/2007 (tức trước cả ngày thụ lý 28/6/2007, nhưng sau đó lại thông báo sửa
chữa là ngày 28/6/2007). Quyết định này không đúng pháp luật vì Tòa án
nêu: “đất tranh chấp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không
thuộc thẩm quyền của Tòa án” là sai với quy định tại Điều 136 Luật Đất đai.
TAND huyện cho rằng “quá 7 ngày không kháng cáo” kể từ ngày 14/6/2007 là sai.
Vì ngay khi nhận được Quyết định Bà Ba nói đã nộp đơn, có thể TA đã nhầm lẫn
tên gọi “Đơn khiếu nại” với “kháng cáo”? Giả thiết Bà Ba có nộp đơn kháng cáo
quá hạn (nhận Quyết định ngày 14/6 mà ngày 28/6 mới nộp đơn) thì theo quy định
tại đoạn 1 khoản 2 Điều 246 và Điều 247 BLTTDS, TAND huyện phải yêu cầu Bà Ba
trình bày lý do và nộp hồ sơ đến TAND Tỉnh là nơi có thẩm quyền xét đơn kháng
cáo quá hạn.
7. Tiếp theo, TAND Tỉnh lại căn cứ “đất
đang tranh chấp không có trong hồ sơ địa chính” để bác yêu cầu của Bà Ba bằng
văn bản số 06/2008 ngày 24/01/2008 gọi là “giải quyết khiếu nại” là sai với
quy định Luật Đất đai và BLTTDS như đã trình bày trên. Trường hợp này, nếu
có phải có kháng nghị và giải quyết vụ việc theo trình tự Giám đốc thẩm.
8. Bà Ba tiếp tục khiếu nại thì cả hai
cấp UBND Huyện và Tỉnh đều ra Quyết định giải quyết khiếu nại bác yêu cầu của
Bà Ba với những căn cứ đi ngược lại những chứng cứ, xác minh ban đầu của UB Xã
và Phòng TN&MT Huyện.
9. Hiện nay, bà Phạm Thị Kỷ đang chiếm
dụng đất trái pháp luật, còn Bà Nguyễn Thị Ba thì gần đất xa trời, xa luôn cả
“mặt trời công lý”… Con Bà (Bà Trần Thị Hoàng) đi tìm “công lý và sự thật” thì bị
bắt bỏ tù hai năm… Trong khi lỗi này – chưa xét về nội dung, chỉ hình thức
trình tự giải quyết – thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, UBND Tỉnh đã giải
quyết sai pháp luật.
3) Trường hợp Ông LÊ VĂN BỬNG, VÀ MỘT SỐ HỘ DÂN KHÁC-
Ở Phường Phú Tân, TP. Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
Theo Thanh Tra Chính Phủ tại Báo Cáo nêu ở dưới, xác
định: “Quá trình thực hiện Dự án Khu liên hợp Công nghiệp – Dịch vụ và Đô
thị Bình Dương, có 110 hộ dân khiếu nại… với nội dung khiếu nại bao gồm:
- Yêu cầu nâng
giá bồi thường thiệt hại đất, không chấp nhận phê duyệt phương án đền bù theo
Quyết định số 164/2003/QĐ-UB ngày 23/06/2003 của UBND Tỉnh.
- Yêu cầu hoán
đổi đất nông nghiệp khác (cùng loại) để người dân có đất nông nghiệp sản xuất.
- Yêu cầu được
tái định cư ngay trên ngay mảnh đất của mình đang sinh sống, canh tác (tái định
cư tại chỗ), hỗ trợ mua thêm đất tái định cư theo giá sàn.
- Yêu cầu được
góp vốn với nhà đầu tư bằng quyền sử dụng đất.”
Nhưng vụ việc hàng chục năm qua không được giải quyết, do
những vi phạm pháp luật của Lãnh đạo UBND Tỉnh.
Để khách quan, chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ trích nguyên
văn các Báo cáo, Kết luận của các Đoàn
Thanh Tra Chính Phủ về những vi phạm của UB Tỉnh liên
quan đến yêu cầu khiếu nại của Bà con. Và câu hỏi đặt ra là “Thế sao Thủ Tướng
chưa xử lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân?” Người ta có quyền đặt
nghi vấn “Thủ Tướng đang phục vụ nhân dân hay đang dung túng cho cán bộ tham
nhũng?” nếu Thủ Tướng không bảo vệ quyền lợi chín đáng của họ.
1. Trước hết là BÁO CÁO Kết quả kiểm tra, xem xét các nội dung khiếu nại
của một số hộ dân liên quan đến dự án xây dựng Khu liên hợp Công nghiệp – Dịch
vụ và Đô thị Bình Dương, tỉnh Bình Dương ngày 30/2/2008 của Thanh Tra Chính
Phủ (Tổ Công tác theo Quyết định 2409/QĐ-TTCP) với các nội dung:
“Kết quả kiểm tra xác minh:…
1. Quyết định phê duyệt
phương án đền bù trước khi có Quyết định thu hồi đất là sai qui định luật
pháp….
2. Không trao Quyết định
thu hồi đất, không ban hành Quyết định đền bù thiệt hại… cho từng hộ dân là
thiếu sót…
3. Thụ lý để giải quyết
khiếu nại chưa đúng thủ tục, vận dụng pháp luật chưa phù hợp…
4. 104 hồ sơ có 104 Quyết
định thu hồi đất của các hộ dân khiếu nại ban hành sau Luật đất đai 2003, Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP và Nghị định số 197/2004/NĐ-CP có hiệu lực, nhưng các
cấp chính quyền địa phương lại áp dụng Nghị định số 22/1998/NĐ-CP là chưa
phù hợp…”
Thanh Tra Chính Phủ tại Báo cáo này đưa ra Nhận xét:
“Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Nội dung khiếu
nại của các hộ dân một phần là có cơ sở, địa phương phải xem xét và có
biện pháp khắc phục. Về giải quyết khiếu nại, UBND tỉnh Bình Dương, UBND
huyện Tân Uyên và UBND thị xã Thủ Dầu Một khi thụ lý và giải quyết khiếu nại
của các hộ còn giản đơn về hình thức thủ tục dẫn đến vi phạm trình tự mà
Luật khiếu nại, tố cáo cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khiếu
nại, tố cáo qui định, từ các vi phạm đó ít nhiều có ảnh hưởng đến lợi ích của
người bị thu hồi đất…
Về chấp hành pháp luật trong xây dựng: UBND tỉnh Bình Dương chưa thực hiện đúng các cơ chế đặc thù mà Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận tại Quyết định 912/QĐ-TTg ngày 01/09/2005 cụ thể
như: việc chỉ định thầu một số công trình tạo lực chưa được thực hiện đầy đủ
thủ tục, qui trình (hồ sơ chỉ định thầu, dự toán chi phí công trình, quyết toán
công trình…), việc thẩm định năng lực nhà đầu tư để giao đất Khu Công nghiệp
cũng chưa được chú ý đúng mức…”
2. Hai là KẾT LUẬN THANH TRA KHU LIÊN HỢP CÔNG NGHIỆP
– DỊCH VỤ VÀ ĐÔ THỊ BÌNH DƯƠNG số 2613/KL-TTCP ngày 26/11/2008 của Thanh
tra Chính Phủ, với các nội dung:
“Việc không đền bù phần đất hành lang bảo vệ an toàn giao
thông đường bộ (người dân đã sử dụng ổn định và đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp theo quy định tại điểm c, mục 3, chương 2 thông tư
1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính) là không đúng với
quy định tại điểm a, khoản 4, điều 92 Nghị định 181 hướng dẫn thi hành Luật
đất đai năm 2003 quy định về bồi thường thiệt hại về đất khi Nhà nước thu hồi
đất hành lang an toàn đường bộ…
UBND tỉnh Bình Dương chỉ ra quyết định thành lập Ban chỉ
đạo giải tỏa bồi thường mà không thành lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng
mặt bằng, nên không có đại diện của các hộ dân có nhà, đất bị giải tỏa tham gia
là không đúng với quy định tại điểm a, khoản 4, điều 92 Nghị định 181
hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 quy định về bồi thường thiệt hại về
đất khi Nhà nước thu hồi đất hành lang an toàn đường bộ…
…Do không thành lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng
mặt bằng ở các huyện nên cũng không lập phương án đền bù, dẫn đến không có động
tác thẩm định phê duyệt phương án; không giao nhiệm vụ cho các cấp, các ngành
để thực hiện chức năng tham mưu từng lĩnh vực là không đúng với quy định
tại điều 32, điều 33 Nghị định 22/1998-NĐ-CP ngày 24/4/1998 (điều 32 quy định
về Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng, điều 33 quy định về trách
nhiệm của UBND các cấp, các ngành); điều 39, điều 40, điều 41, điều 43, điều
44, điều 45 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…”.
“…1.3- Về hồ sơ bồi thường:
- Không có biên bản về khảo sát thực địa trước khi
giải tỏa để xác định thực trạng nhà, đất và tài sản trên đất của dân tại
khu vực giải tỏa làm cơ sở cho việc xây dựng phương án bồi thường thiệt hại
giải phóng mặt bằng; không có phương án đền bù cụ thể dẫn đến không phê duyệt
phương án đền bù.
- Trong hồ sơ bồi thường, diện tích thu hồi chỉ
được thể hiện trong biên bản kiểm kê do cán bộ Tổ chuyên viên và cán bộ ấp, xã
đi kiểm kê xác định. Nhiều biên bản kiểm kê đất và tài sản tại xã Phú Chánh
không có ký tên của người có thẩm quyền của UBND xã, không đóng dấu UBND
xã, chỉ đóng dấu treo vào biên bản kiểm kê.
- Việc tương phân đất không có tiêu chí rõ ràng,
các hồ sơ đất tương phân được chấp nhận đền bù thì giấy tờ tương phân làm theo
mẫu của Ban quản lý khu liên hợp soạn sẵn, không ghi ngày, tháng, năm tương
phân đất, không ghi rõ mối quan hệ giữa người cho với người nhận, không ghi
rõ trên đất tương phân có nhà hay không có nhà. Do cách làm như vậy nên đã
có trường hợp ông Nguyễn Văn Thu – Bí thư Đảng ủy, kiêm chủ tịch UBND xã Phú Mỹ
(thị xã Thủ Dầu Một) đã ký xác nhận vào giấy tương phân đất để nhận tiền hối lộ
và đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.4 – Kết quả thực hiện công tác đền bù giải tỏa:
Đến thời điểm Thủ tướng Chính phủ có Quyết định
912/QĐ-TTg ngày 01/9/2005 phê duyệt “Đề án tổng thể đầu tư và phát triển Khu
liên hợp công nghiệp – Dịch vụ – Đô thị Bình Dương” thì việc giải tỏa, bồi
thường đã thực hiện được 85% diện tích quy hoạch. Theo báo cáo số 25/BC-UBND
ngày 16/4/2008 của UBND tỉnh Bình Dương thì tính từ cuối tháng 11/2003 đến 31/3/2008,
tỉnh Bình Dương đã giải phóng được 4.063,02 ha đạt 96,83% diện tích cần giải
tỏa; đã chi trả bồi thường 1.508 tỷ đồng. Còn lại 132 ha của 165 hộ gia đình,
cá nhân (chiếm 3,17%) chưa nhận tiền bồi thường (Phú Mỹ: 32 hộ, 28,894 ha; Định
Hòa 04 hộ, 3,89 ha; Phú Chánh 46 hộ, 23,628 ha ; Tân Vĩnh Hiệp, 89 hộ 76,541
ha). Trong số hộ chưa nhận tiền, chưa chịu giao đất thì có 26 hộ của các xã Phú
Mỹ, Phú Chánh, Tân Vĩnh Hiệp không cho kiểm kê.
Có 264 hộ đã nhận tiền bồi thường nhưng chưa chịu di dời
để giao đất (Phú Mỹ: 15 hộ, Định Hòa: 05 hộ, Phú Chánh: 50 hộ, Tân Vĩnh Hiệp:
194 hộ).
Như vậy, hiện còn 429 hộ còn vướng mắc, chưa đồng
thuận trong việc giải tỏa bồi thường, trong số đó có nhiều hộ đang khiếu
nại yêu cầu nâng giá đất, yêu cầu bồi thường đất hành lang bảo vệ đường bộ…. UBND
tỉnh Bình Dương cần phải tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm. trong quá
trình triển khai thực hiện dự án,…”
Trên cơ sở đó, Thanh Tra Chính Phủ kết luận: “…UBND
tỉnh, các cơ quan liên quan của tỉnh Bình Dương đã bộc lộ nhiều yếu kém
trong công tác quản lý, dẫn đến các vi phạm như:
1 – UBND tỉnh Bình Dương chưa thực hiện đầy đủ các quy
định về thu hồi đất, về bồi thường giải tỏa, không thành lập Hội đồng
đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng, chưa phát huy hết chức năng
tham mưu của các Sở, Ngành chức năng cấp tỉnh, không yêu cầu UBND cấp huyện
thị thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai theo thẩm quyền được pháp
luật quy định, chưa thực hiện đúng các quy định Luật Đất đai và luật khiếu
nại, tố cáo về giải quyết khiếu nại của người dân liên quan đến thu hồi
đất, giải tỏa, bồi thường…”
3) Bất chấp các Kiến nghị xử lý, yếu cầu giải quyết… của
mọi cấp, Ban, ngành,… UBND Tỉnh vẫn không giải quyết khiếu nại của các Hộ dân.
Một trong những Văn bản “nhắc nhở” điển hình là Công văn số 135/CV.TDTƯ ngày
16/8/2011 của Trụ sở tiếp Công dân của TW đảng và NN với nội dung “…Về việc
này, Trụ sở Tiếp công dân có Văn bản số 37/CV.TDTƯ ngày 17 tháng 3 năm
2011 chuyển đến UBND tỉnh Bình Dương xem xét giải quyết theo thẩm quyền và Văn
bản số 118/CV.TDTƯ ngày 21 tháng 7 năm 2011 đôn đốc UBND tỉnh Bình Dương
sớm giải quyết khiếu nại của các hộ dân. Tuy nhiên, đến nay các hộ dân này vẫn
chưa nhận được kết quả giải quyết của UBND tỉnh Bình Dương…”
4) Và tại Biên Bản Làm việc ngày 30/5/2012 tại Trụ sở
tiếp Công dân của TW đảng và NN đã phải có ý kiến: “…Việc UBND tỉnh đã thụ lý
Đơn khiếu nại của các công dân quá thời hạn qui định nhưng không ban hành Quyết
định giải quyết khiếu nại là vi phạm qui định của Luật khiếu nại, tố cáo;
đề nghị UBND tỉnh sớm ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại, trả lời công
dân theo qui định của pháp luật…”.
Ý KIẾN CỦA CHÚNG TÔI: Thấu hiểu tâm tư người Dân Oan khi
cùng đường tìm đến chúng tôi, bức xúc trước nỗi đau, cảm thông “lòng tin bị sút
giảm” của Dân Oan, bất lực trước “cường quyền, cố tình vi phạm pháp luật”…
Chúng tôi – theo quyền Công dân, được Pháp luật qui định- thông báo với Ông ba
(3) trường hợp điển hình. Mong muốn Ông sớm thực hiện quyền Thủ Tướng, chấm dứt
hành vi vi phạm pháp luật của thuộc quyền, trả lại công lý cho người Dân.
Kính chào,
Linh mục ĐINH HỮU THOẠI
TRƯỞNG VĂN PHÒNG
No comments:
Post a Comment