CÔNG ƯỚC CHỐNG TRA TẤN VÀ CÁC HÌNH THỨC
TRỪNG PHẠT HAY ĐỐI XỬ TÀN ÁC, VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC, 1984
(Được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
10/12/1984 theo Nghị quyết 39/46. Có hiệu lực từ ngày 26/6/1987, theo Điều
27(1)).
Các Quốc gia thành viên Công ước này,
Xét rằng, theo những nguyên tắc được tuyên bố trong Hiến
chương Liên Hợp Quốc, việc công nhận các quyền bình đẳng và không thể chuyển
nhượng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công
lý và hoà bình trên thế giới,
Thừa nhận rằng, những quyền đó xuất phát từ nhân phẩm vốn
có của con người,
Xét nghĩa vụ của các quốc gia theo Hiến chương, cụ thể
theo Điều 55, là thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ
bản của con người,
Xét Điều 5 của Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con
người và Điều 7 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, trong đó
cả hai điều đều quy định rằng, không ai phải chịu tra tấn hoặc đối xử hay trừng
phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
Cũng xét đến Tuyên bố về bảo vệ mọi người không bị tra
tấn, đối xử hay hình phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, được Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 9/12/1975,
Mong muốn cuộc đấu tranh chống tra tấn và đối xử hay
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm được hiệu quả hơn,
Đã thoả thuận như sau:
PHẦN I
Điều 1.
1. Theo mục đích của Công ước này, thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành
vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho
một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay
một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay
người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc
người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân
biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công chức
hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi
giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao
gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan
đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp.
2. Quy định trong điều này không làm phương hại tới bất kỳ văn kiện quốc tế
hay pháp luật quốc gia nào có hay có thể có các điều khoản có mức độ áp dụng
rộng rãi hơn.
Điều 2.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp,
tư pháp, hoặc các biện pháp hiệu quả khác để ngăn chặn các hành vi tra tấn trên
bất cứ khu vực lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình.
2. Không có bất kỳ hoàn cảnh ngoại lệ nào, cho dù là trong tình trạng chiến
tranh, hoặc đang bị đe doạ bởi chiến tranh, mất ổn định chính trị trong nước
hoặc bất kỳ tình trạng khẩn cấp nào có thể được viện dẫn để biện minh cho việc
tra tấn.
3. Mệnh lệnh của quan chức hay của cơ quan có thẩm quyền cấp trên không thể
được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn.
Điều 3.
1. Không một Quốc gia thành viên nào được trục xuất, hay trả về hoặc dẫn độ
một người cho một quốc gia khác, nơi có nhiều lý do thực tế để tin rằng người
đó có nguy cơ bị tra tấn.
2. Để xác định xem có những lý do đó hay không, các nhà chức trách có thẩm
quyền phải xem xét mọi yếu tố có liên quan, bao gồm sự tồn tại của một mô hình
vi phạm các quyền con người một cách thô bạo, trắng trợn và phổ biến ở quốc gia
liên quan, nếu có.
Điều 4.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành
tội phạm theo luật hình sự của nước mình. Điều này cũng áp dụng với những hành
vi cố gắng thực hiện việc tra tấn hoặc hành vi của bất kỳ người nào đồng loã
hoặc tham gia việc tra tấn.
2. Mỗi Quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm này bằng những hình
phạt thích đáng tương ứng với tính chất nghiêm trọng của chúng.
Điều 5.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải tiến hành những biện pháp cần thiết để xác lập
quyền tài phán đối với những hành vi phạm tội nêu ở Điều 4, trong các trường
hợp sau:
1. Khi hành vi phạm tội được thực hiện trên bất kỳ vùng lãnh thổ nào thuộc
quyền tài phán của quốc gia hay trên tàu thủy hoặc máy bay đăng ký ở quốc gia
đó.
2. Khi người bị tình nghi phạm tội là công dân của quốc gia đó.
3. Khi nạn nhân là công dân của quốc gia đó nếu quốc gia đó thấy thích đáng.
4. Mỗi Quốc gia thành viên cũng phải tiến hành những biện pháp cần thiết để
xác lập quyền tài phán của mình đối với những hành vi phạm tội này trong trường
hợp người bị tình nghi phạm tội đang có mặt ở bất kỳ vùng lãnh thổ nào thuộc
quyền tài phán của mình và quốc gia đó không dẫn độ người bị tình nghi theo
Điều 8 đến bất kỳ quốc gia nào nói ở khoản 1 điều này.
5. Công ước này không loại trừ bất kỳ quyền tài phán hình sự nào được thực thi
theo pháp luật quốc gia.
Điều 6.
1. Sau khi kiểm tra thông tin có được, nếu thấy rằng hoàn cảnh yêu cầu, bất kỳ
Quốc gia thành viên nào mà trên lãnh thổ của mình người bị nghi là đã thực hiện
hành vi phạm tội nêu tại Điều 4 đang có mặt, phải bắt giam người đó hoặc tiến
hành những biện pháp pháp lý khác để bảo đảm sự hiện diện của người đó.
Việc giam giữ và các biện pháp pháp lý khác phải tuân theo các quy định pháp
luật của quốc gia đó nhưng chỉ có thể được duy trì trong một thời gian cần
thiết để tiến hành bất kỳ thủ tục tố tụng hay dẫn độ nào.
2. Quốc gia nêu trên phải tiến hành ngay viềc điều tra sơ bộ sự việc.
3. Bất kỳ ai bị giam giữ theo khoản 1 điều này phải được giúp đỡ liên hệ ngay
với đại diện thích hợp gần nhất của quốc gia mà người đó là công dân, hoặc, nếu
người đó là người không quốc tịch, với đại diện của quốc gia nơi người đó
thường trú.
4. Khi một quốc gia bắt giữ một người theo quy định tại điều này, quốc gia đó
phải thông báo ngay cho quốc gia nói tại khoản 1 Điều 5 về việc người đó bị bắt
giữ, và hoàn cảnh đòi hỏi phải bắt giữ người đó. Quốc gia tiến hành điều tra sơ
bộ nói ở khoản 2 điều này phải nhanh chóng thông báo kết quả điều tra
của mình cho các quốc gia nói trên và cho biết có dự định thực thi quyền
tài phán hay không.
Điều 7.
1. Quốc gia mà trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình phát hiện người
được cho là đã thực hiện hành vi phạm tội nêu tại Điều 4, sẽ phải chuyển vụ
việc lên cơ quan thẩm quyền của quốc gia đó để truy tố, trong các trường hợp
nêu tại Điều 5, nếu quốc gia đó không dẫn độ người bị tình nghi.
2. Những cơ quan thẩm quyền này phải quyết định tương tự như trường hợp của
bất kỳ hành vi phạm tội thông thường nào có tính chất nghiêm trọng theo pháp
luật của quốc gia đó. Trong các trường hợp nói ở khoản 2 Điều 5, tiêu chuẩn về
chứng cứ cần thiết để truy tố và kết tội phải không kém nghiêm ngặt hơn những
tiêu chuẩn áp dụng cho các trường hợp nói tại khoản 1 Điều 5.
3. Bất kỳ người nào đang là đối tượng của quá trình tố tụng vì bất kỳ hành vi
phạm tội nào nói tại Điều 4 phải được bảo đảm đối xử công bằng trong mọi giai
đoạn tố tụng.
Điều 8.
1. Những hành vi phạm tội nói tại Điều 4 phải được coi là các tội có thể dẫn
độ theo bất kỳ điều ước quốc tế về dẫn độ nào nếu có giữa các Quốc gia thành
viên. Các Quốc gia thành viên cam kết đưa những hành vi phạm tội này vào danh
mục các tội có thể dẫn độ trong các điều ước quốc tế về dẫn độ sẽ được ký kết
giữa họ với nhau.
2. Nếu một Quốc gia thành viên chỉ cho phép dẫn độ khi có điều ước quốc tế về
dẫn độ mà nhận được yêu cầu dẫn độ của một Quốc gia thành viên khác không có
điều ước quốc tế về dẫn độ với mình thì quốc gia đó có thể coi Công ước này là
cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ đối với những hành vi phạm tội này. Việc dẫn độ
sẽ phải tuân thủ những điều kiện khác do pháp luật của quốc gia được yêu cầu
dẫn độ quy định.
3. Các Quốc gia thành viên không đặt điều kiện dẫn độ bằng việc có điều ước
quốc tế về dẫn độ phải công nhận những hành vi phạm tội này là tội có thể dẫn
độ giữa họ với nhau, theo những điều kiện do pháp luật của quốc gia được yêu
cầu dẫn độ quy định.
4. Những hành vi phạm tội này phải được xử lý, vì mục đích dẫn độ giữa các
Quốc gia thành viên, như thể chúng được thực hiện không chỉ tại nơi xảy ra tội
phạm, mà cả trên lãnh thổ của các quốc gia được yêu cầu xác lập quyền tài phán
của mình theo khoản 1 Điều 5.
Điều 9.
1. Các Quốc gia thành viên phải hỗ trợ lẫn nhau một cách tối đa về các thủ tục
tố tụng hình sự áp dụng đối với những hành vi phạm tội nói tại Điều 4, kể cả
việc cung cấp bằng chứng cần thiết mà họ có được cho việc tiến hành tố tụng.
2. Các Quốc gia thành viên phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo khoản 1 điều
này phù hợp với bất kỳ điều ước quốc tế nào về tương trợ tư pháp có thể có giữa
các quốc gia này.
Điều 10.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng giáo dục và tuyên truyền về
nghiêm cấm hành động tra tấn được đưa đầy đủ vào chương trình đào tạo các quan
chức thực thi pháp luật, các nhân viên dân sự, quân sự, y tế, công chức và
những người khác mà có thể liên quan đến việc giam giữ, thẩm vấn hoặc đối xử
với bất kỳ cá nhân nào bị bắt, giam giữ hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào.
2. Mỗi Quốc gia thành viên phải đưa việc nghiêm cấm này vào các quy tắc hoặc
hướng dẫn được ban hành về nhiệm vụ và chức năng của tất cả những đối tượng kể
trên.
Điều 11.
Mỗi Quốc gia thành viên phải rà soát một cách có hệ thống
các quy tắc, hướng dẫn, phương pháp và thực tiễn thẩm vấn cũng như các cơ chế
giam giữ và đối xử với những người bị bắt, giam giữ, cầm tù dưới mọi hình thức,
ở bất kỳ lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình, nhằm mục đích ngăn chặn
mọi vụ việc tra tấn.
Điều 12.
Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng các cơ quan có
thẩm quyền của mình sẽ tiến hành điều tra khẩn trương và khách quan mỗi khi có
cơ sở hợp lý để tin rằng việc tra tấn đã xảy ra trên lãnh thổ thuộc quyền tài
phán của mình.
Điều 13.
Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ cá nhân
nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình đều có
quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của nước đó và được những cơ quan này
xem xét một cách khẩn trương và khách quan. Quốc gia đó cũng phải thực hiện các
biện pháp để bảo đảm rằng người khiếu nại và nhân chứng được bảo vệ tránh sự
ngược đãi hay hăm dọa như là hậu quả của việc khiếu nại hoặc cung cấp bằng
chứng.
Điều 14.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm trong hệ thống pháp luật của mình rằng
các nạn nhân của hành động tra tấn sẽ được cứu chữa và có quyền khả thi
được bồi thường công bằng và thoả đáng, kể cả được cung cấp những điều kiện để
phục hồi một cách đầy đủ đến mức có thể. Trường hợp nạn nhân chết do bị tra
tấn, những người phụ thuộc vào người đó có quyền hưởng bồi thường.
2. Không một quy định nào trong điều này ảnh hưởng tới bất kỳ quyền được bồi
thường nào của nạn nhân hay của người khác có thể có theo pháp luật quốc gia.
Điều 15.
Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ phát
ngôn nào được đưa ra như là kết quả của sự tra tấn sẽ không được sử dụng làm bằng
chứng trong bất kỳ tiến trình tố tụng nào, trừ khi để làm bằng chứng chống lại
một người bị cáo buộc là đã thực hiện hành động tra tấn để có lời khai người
đó.
Điều 16.
1. Mỗi Quốc gia thành viên cam kết ngăn ngừa trên lãnh thổ thuộc quyền tài
phán của mình những hành vi đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo và hạ
thấp nhân phẩm khác mà không giống với tra tấn như định nghĩa ở Điều 1, khi
những hành vi này do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách
chính thức thực hiện, hoặc do xúi giục, đồng tình hay ưng thuận. Cụ thể là
những nghĩa vụ quy định tại các Điều 10, 11, 12 và 13 sẽ được áp dụng, trong đó
các dẫn chiếu về hành động tra tấn sẽ được thay thế bằng các dẫn chiếu về các
hình thức đối xử và trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm.
2. Các quy định của Công ước này sẽ không làm phương hại tới các quy định của
bất kỳ văn kiện nào khác trong pháp luật quốc tế hay pháp luật quốc gia mà
nghiêm cấm các hành động đối xử và trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp
nhân phẩm, hoặc liên quan đến các vấn đề dẫn độ hay trục xuất.
PHẦN II
Điều 17.
1. Thành lập một Ủy ban chống tra tấn (sau đây gọi tắt là Ủy ban) có những
chức năng được quy định dưới đây. Ủy ban bao gồm 10 chuyên gia được thừa nhận
là có đạo đức cao và có năng lực trong lĩnh vực quyền con người, làm việc với
tư cách cá nhân. Các chuyên gia phải được các Quốc gia thành viên bầu, có tính
tới sự phân bổ công bằng về địa lý và lợi ích của sự tham gia của những người
có kinh nghiệm pháp luật.
2. Các thành viên Ủy ban sẽ được bầu bằng bỏ phiếu kín trên cơ sở danh sách đề
cử của các Quốc gia thành viên. Mỗi quốc gia có thể đề cử một công dân nước
mình. Các Quốc gia thành viên cần chú ý đến lợi ích của việc đề cử những người
cũng là thành viên của Ủy ban Quyền con người được thành lập theo Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị và những người sẵn sàng làm việc trong Ủy
ban chống tra tấn.
3. Việc bầu các thành viên Ủy ban sẽ được tiến hành tại cuộc họp toàn thể các
nước thành viên tổ chức hai năm một lần do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập.
Tại các cuộc họp này, với điều kiện phải có sự hiện diện của ít nhất 2/3 số
Quốc gia thành viên, những người được bầu vào Ủy ban là những ứng cử viên có số
phiếu cao nhất và chiếm đa số tuyệt đối phiếu bầu của đại diện các quốc gia có mặt
và bỏ phiếu.
4. Lần bầu cử đầu tiên tổ chức không muộn hơn sáu tháng sau ngày Công ước này
có hiệu lực. Ít nhất bốn tháng trước ngày bầu cử, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ
gửi thư cho các Quốc gia thành viên yêu cầu họ gửi danh sách đề cử trong vòng
ba tháng. Tổng thư ký sẽ chuẩn bị một danh sách những người được đề cử xếp theo
thứ tự trong bảng chữ cái Latinh, có ghi rõ quốc gia đề cử, và gửi cho các Quốc
gia thành viên.
5. Các thành viên của Ủy ban được bầu với nhiệm kỳ bốn năm. Họ có thể được bầu
lại nếu được đề cử. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của năm thành viên trong cuộc bầu cử
đầu tiên sẽ chấm dứt sau hai năm. Ngay sau lần bầu cử đầu tiên, tên của năm
thành viên này sẽ do chủ toạ của cuộc họp nói tại khoản 3 điều này chọn bằng
rút thăm.
6. Nếu một thành viên Ủy ban chết hoặc từ chức hoặc vì bất kỳ lý do nào khác
mà không thể thực hiện nhiệm vụ của mình, Quốc gia thành viên đã đề cử người đó
sẽ bổ nhiệm một chuyên gia khác là công dân nước mình làm việc nốt thời gian
còn lại của nhiệm kỳ, với điều kiện được sự chấp thuận của đa số các Quốc gia
thành viên. Sự chấp thuận được coi là đạt được khi có hơn một nửa số quốc gia
trả lời đồng ý trong vòng sáu tuần sau khi được Tổng thư ký Liên Hợp Quốc thông
báo về việc bổ nhiệm đó.
7. Các Quốc gia thành viên phải chịu chi phí cho các thành viên Ủy ban khi họ
thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban.
Điều 18.
1. Ủy ban sẽ bầu các quan chức của mình với nhiệm kỳ hai
năm. Họ cũng có thể được bầu lại.
2. Ủy ban sẽ đặt ra các quy tắc về thủ tục của mình,
những quy tắc này, không kể những nội dung khác, sẽ bao gồm những quy định sau:
a. Ủy ban sẽ chỉ họp khi có ít nhất là sáu thành viên
tham gia.
b. Các quyết định của Ủy ban phải được thông qua bằng đa
số phiếu của những thành viên có mặt.
3. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ cung cấp đầy đủ nhân sự
và phương tiện để Ủy ban thực hiện hiệu quả chức năng của mình theo quy định
của Công ước này.
4. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ triệu tập cuộc họp đầu
tiên của Ủy ban. Sau cuộc họp đầu tiên, Ủy ban sẽ họp theo lịch trình quy định
trong quy tắc về thủ tục của mình.
5. Các Quốc gia thành viên chịu các phí tổn về tổ chức
các cuộc họp của Quốc gia thành viên và của Ủy ban, kể cả việc hoàn lại cho
Liên Hợp Quốc các chi phí về nhân sự và phương tiện mà Liên Hợp Quốc đã chi
theo khoản 3 điều này.
Điều 19.
1. Các Quốc gia thành viên phải trình lên Ủy ban, qua Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc, báo cáo về các biện pháp họ đã tiến hành để thực hiện cam kết theo Công
ước này trong vòng một năm sau khi Công ước có hiệu lực với các Quốc gia thành
viên đó. Sau đó, các quốc gia phải trình báo cáo bổ sung bốn năm một lần về bất
kỳ biện pháp mới nào được tiến hành và các báo cáo khác mỗi khi Ủy ban có yêu
cầu.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các báo cáo tới tất cả các Quốc gia
thành viên.
3. Mọi báo cáo sẽ được Ủy ban xem xét, Ủy ban có thể đưa ra nhận xét về các
báo cáo nếu thấy phù hợp và gửi các nhận xét đó cho Quốc gia thành viên liên
quan. Quốc gia thành viên đó có thể gửi ý kiến trả lời của mình cho Ủy ban.
4. Ủy ban có thể tuỳ ý quyết định đưa nhận xét của mình theo khoản 3 điều này,
cùng với những ý kiến nhận được sau đó từ Quốc gia thành viên liên quan, vào
báo cáo thường niên của mình theo quy định tại Điều 24. Nếu Quốc gia thành viên
liên quan yêu cầu, Ủy ban cũng có thể đưa bản sao của báo cáo được đệ trình
theo khoản 1 điều này vào báo cáo thường niên của Ủy ban.
Điều 20.
1. Nếu Ủy ban nhận được thông tin đáng tin cậy chứa đựng những dấu hiệu có cơ
sở là việc tra tấn đang được tiến hành một cách có hệ thống trên lãnh thổ của
một Quốc gia thành viên, Ủy ban sẽ mời Quốc gia thành viên đó hợp tác trong
việc kiểm tra thông tin và vì mục đích này, đưa ra ý kiến về những thông tin
liên quan đó.
2. Xem xét mọi ý kiến mà Quốc gia thành viên liên quan có thể đưa ra, cũng như
bất kỳ thông tin liên quan nào khác có được, Ủy ban có thể, nếu thấy cần thiết,
cử một hay nhiều ủy viên tiến hành một cuộc điều tra kín và khẩn trương báo cáo
kết quả với Ủy ban.
3. Khi tiến hành một cuộc điều tra theo khoản 2 điều này, Ủy ban phải tìm kiếm
sự hợp tác của Quốc gia thành viên liên quan. Theo thoả thuận với Quốc gia thành
viên liên quan, cuộc điều tra có thể bao gồm một chuyến thăm viếng lãnh thổ của
quốc gia đó.
4. Sau khi xem xét kết quả điều tra do một hay nhiều thành viên của mình đưa
ra theo khoản 2 điều này, Ủy ban sẽ chuyển kết quả điều tra này cho Quốc gia
thành viên cùng những nhận xét hay khuyến nghị mà Ủy ban cho là thích hợp về vụ
việc.
5. Mọi trình tự hoạt động của Ủy ban đề cập tại các khoản từ 1 đến 4 của điều
này sẽ được giữ kín, và tại mọi giai đoạn, Ủy ban phải tìm kiếm sự hợp tác của
Quốc gia thành viên liên quan. Sau khi những trình tự liên quan tới một cuộc
điều tra theo khoản 2 điều này kết thúc, Ủy ban có thể, sau khi tham khảo ý
kiến của Quốc gia thành viên liên quan, quyết định đưa vào báo cáo thường niên
của mình theo Điều 24 bản tóm lược kết quả quá trình điều tra.
Điều 21.
1. Quốc gia thành viên Công ước này có thể, vào bất cứ lúc nào, tuyên bố theo
điều này rằng quốc gia đã công nhận quyền của Ủy ban được tiếp nhận và xem xét
các thông cáo theo đó một Quốc gia thành viên khiếu nại một Quốc gia thành viên
khác không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo Công ước này. Chỉ những thông cáo
do một Quốc gia thành viên đã tuyên bố công nhận quyền hạn của Ủy ban về việc
này trình lên mới được tiếp nhận và xem xét. Ủy ban sẽ không xem xét bất kỳ
thông cáo nào theo điều này nếu nó liên quan đến một Quốc gia thành viên chưa
có tuyên bố như vậy. Các thông cáo được tiếp nhận theo điều này sẽ được giải
quyết theo trình tự như sau:
a. Nếu một Quốc gia thành viên cho rằng một Quốc gia
thành viên khác không thực hiện các quy định của Công ước này thì có thể gửi
một thông cáo bằng văn bản, lưu ý quốc gia kia về vấn đề đó. Trong vòng 3 tháng
sau khi nhận được thông cáo, quốc gia nhận được thông cáo phải đưa ra lời giải
thích hoặc bất kỳ hình thức tuyên bố nào khác bằng văn bản cho quốc gia gửi
thông cáo để làm sáng tỏ vấn đề, trong đó cần đề cập đến, trong chừng mực có
thể và thích hợp, những thủ tục trong nước cùng những biện pháp khắc phục đã,
đang hoặc sẵn sàng tiến hành để giải quyết vấn đề.
b. Nếu vấn đề không được giải quyết một cách thỏa đáng
với cả hai Quốc gia thành viên liên quan trong vòng sáu tháng sau khi nhận được
thông cáo đầu tiên, một trong hai quốc gia đó có quyền đưa vấn đề này ra Ủy ban
bằng cách gửi thông báo cho Ủy ban và cho quốc gia kia;
c. Ủy ban chỉ xem xét vấn đề theo điều này sau khi đã
chắc chắn rằng mọi biện pháp khắc phục trong nước đều đã được áp dụng triệt để,
phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế. Quy
định này không áp dụng trong trường hợp việc tiến hành những biện pháp khắc
phục bị kéo dài một cách vô lý hoặc không có khả năng đem lại sự cứu giúp hiệu
quả cho nạn nhân của việc vi phạm Công ước này;
d. Ủy ban sẽ họp kín khi xem xét những thông cáo theo
điều này;
e. Với các quy định tại mục (c), Ủy ban sẽ giúp đỡ các
Quốc gia thành viên liên quan giải quyết vấn đề một cách thân thiện trên cơ sở
tôn trọng các nghĩa vụ theo Công ước này. Vì mục tiêu đó, Ủy ban có thể, nếu
thích hợp, thành lập một Ủy ban hoà giải lâm thời;
f. Khi xem xét bất kỳ vấn đề nào được chuyển đến, Ủy ban
có thể yêu cầu các Quốc gia thành viên liên quan nêu tại mục (b) cung cấp bất
kỳ thông tin liên quan nào;
g. Các Quốc gia thành viên liên quan nêu tại mục (b) sẽ
có quyền có mặt khi vấn đề được đem ra xem xét tại Ủy ban và trình bày quan
điểm bằng miệng và/hoặc bằng văn bản;
h. Trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo
theo mục (b), Ủy ban sẽ đệ trình một báo cáo:
i. Nếu đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (e),
Ủy ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về sự việc và giải pháp
đã đạt được;
ii. Nếu không đạt được một giải pháp theo quy định tại
mục (e), Ủy ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về sự việc; các
ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi những lời phát biểu do các Quốc gia thành
viên liên quan đưa ra sẽ được đính kèm báo cáo. Trong mọi trường hợp, báo cáo
sẽ được gửi cho các Quốc gia thành viên liên quan.
1. Quy định của điều này sẽ có hiệu lực khi có năm Quốc gia thành viên Công
ước ra tuyên bố theo khoản 1 điều này. Những tuyên bố đó sẽ được các Quốc gia
thành viên nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, và Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc sẽ gửi các bản sao cho các Quốc gia thành viên khác. Tuyên bố có thể được
rút lại bất kỳ lúc nào bằng việc thông báo cho Tổng thư ký. Việc rút lại tuyên
bố như vậy sẽ không cản trở việc xem xét bất kỳ vấn đề nào nêu trong thông cáo
đã được chuyển cho Ủy ban theo điều này; không một thông cáo nào của bất kỳ
Quốc gia thành viên nào được tiếp nhận theo điều này sau khi Tổng thư ký đã
nhận được thông báo rút lại tuyên bố nói trên, trừ khi Quốc gia thành viên liên
quan đưa ra tuyên bố mới.
Điều 22.
1. Các Quốc gia thành viên Công ước này có thể vào bất cứ lúc nào tuyên bố
theo điều này rằng quốc gia đó công nhận thẩm quyền của Ủy ban được tiếp nhận
và xem xét thông cáo từ các cá nhân hay từ đại diện của các cá nhân thuộc quyền
tài phán của quốc gia đã khiếu nại rằng họ là nạn nhân của sự vi phạm các điều
khoản của Công ước thực hiện bởi Quốc gia thành viên đó. Ủy ban sẽ không nhận
những thông cáo liên quan tới một Quốc gia thành viên không ra một tuyên bố như
vậy.
2. Ủy ban sẽ không chấp nhận theo điều này bất kỳ thông cáo nặc danh nào, hoặc
những thông cáo bị coi là lạm dụng quyền đệ trình những thông cáo như thế, hoặc
không phù hợp với những quy định của Công ước.
3. Phù hợp với các quy định tại khoản 2 điều này, Ủy ban sẽ lưu ý các Quốc gia
thành viên Công ước đã có tuyên bố theo khoản 1 và bị cho là vi phạm quy định
của Công ước về bất kỳ thông cáo nào mà Ủy ban nhận được theo điều này. Trong
vòng sáu tháng, quốc gia nhận được thông cáo phải gửi văn bản giải thích cho Ủy
ban để làm sáng tỏ vấn đề và nêu ra những giải pháp pháp lý, nếu có, mà quốc
gia đã thực hiện để giải quyết vấn đề.
4. Ủy ban sẽ xem xét những thông cáo nhận được theo điều này dựa vào mọi thông
tin có được từ các cá nhân hay đại diện của họ và từ Quốc gia thành viên liên
quan.
5. Ủy ban sẽ không xem xét bất kỳ thông cáo nào của cá nhân theo điều này trừ
khi tin chắc rằng:
a. Vấn đề đó chưa được xem xét, và không thuộc vào các
vấn đề đang được xem xét, theo các thủ tục điều tra hoặc giải quyết quốc tế
khác.
b. Cá nhân gửi thông cáo đã vận dụng hết những biện pháp
pháp lý sẵn có ở quốc gia; quy định này sẽ không áp dụng với trường hợp việc
tiến hành các giải pháp quốc gia bị kéo dài một cách vô lý, hoặc không có khả
năng đem lại sự cứu giúp hiệu quả cho nạn nhân của việc vi phạm Công ước này.
1. Ủy ban sẽ họp kín khi xem xét thông cáo theo điều này.
2. Ủy ban sẽ gửi ý kiến của mình tới Quốc gia thành viên và cá nhân có liên
quan.
3. Các quy định của điều này sẽ chỉ có hiệu lực khi có ít nhất năm Quốc gia
thành viên Công ước ra tuyên bố theo khoản 1 điều này. Những quốc gia ra những
tuyên bố như vậy sẽ nộp lưu chiểu với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Tổng thư ký sẽ
chuyển các bản sao cho các Quốc gia thành viên khác. Tuyên bố có thể được rút
lại bất kỳ lúc nào bằng cách gửi văn bản thông báo cho Tổng thư ký. Việc rút
lại tuyên bố sẽ không làm phương hại đến việc xem xét nội dung của những thông
cáo đã được gửi tới Ủy ban theo điều này; sẽ không một thông cáo nào của cá
nhân hay đại diện cho họ khiếu nại về một quốc gia thành viên được tiếp nhận
theo điều này sau khi Tổng thư ký đã nhận được thông báo rút lại tuyên bố như
nêu trên của Quốc gia thành viên có liên quan, trừ khi Quốc gia thành viên đã
đưa ra một tuyên bố mới.
Điều 23.
Các ủy viên của Ủy ban và của các Ủy ban hoà giải lâm
thời được bổ nhiệm theo Điều 21, khoản 1 (e), sẽ có quyền hưởng các điều kiện
thuận lợi, các ưu đãi và miễn trừ dành cho những chuyên gia đang thực thi nhiệm
vụ của Liên Hợp Quốc, như quy định tại các mục liên quan trong Công ước về Đặc
quyền, ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc.
Điều 24.
Ủy ban sẽ trình báo thường niên về hoạt động của mình
theo Công ước này cho các Quốc gia thành viên và cho Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc.
PHẦN III
Điều 25.
1. Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia ký.
2. Công ước này phải được phê chuẩn. Văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 26.
Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia gia nhập.
Việc gia nhập được thực hiện bằng cách nộp lưu chiểu văn kiện gia nhập cho Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 27.
1. Công ước này có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc
gia nhập thứ 20 được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Đối với các quốc gia phê chuẩn hay gia nhập Công ước này sau khi Công ước
đã có hiệu lực, Công ước sẽ có hiệu lực với quốc gia đó sau 30 ngày kể từ khi
văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia đó được lưu chiểu.
Điều 28.
1. Mỗi Quốc gia thành viên có thể, tại thời điểm ký, phê chuẩn hoặc gia nhập
Công ước này, tuyên bố quốc gia đó không công nhận thẩm quyền của Ủy ban nói ở
Điều 20.
2. Bất kỳ Quốc gia thành viên nào đã đưa ra bảo lưu theo khoản 1 điều này, vào
bất cứ lúc nào, đều có thể rút bảo lưu bằng cách thông báo với Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc.
Điều 29.
1. Bất kỳ Quốc gia thành viên nào của Công ước này cũng có thể đề xuất bổ sung
hay sửa đổi Công ước với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký sẽ thông báo về
đề xuất đó cho các Quốc gia thành viên, yêu cầu họ cho ý kiến xem có ủng hộ
việc triệu tập một hội nghị các Quốc gia thành viên để xem xét và bỏ phiếu về
đề xuất đó không. Trong vòng bốn tháng kể từ ngày Tổng thư ký gửi thông báo cho
các Quốc gia thành viên, nếu ít nhất một phần ba số Quốc gia thành viên ủng hộ
việc triệu tập hội nghị, thì Tổng thư ký sẽ triệu tập một hội nghị dưới sự bảo
trợ của Liên Hợp Quốc. Bất kỳ sự sửa đổi nào được đa số Quốc gia thành viên có
mặt và bỏ phiếu thông qua tại hội nghị sẽ được Tổng thư ký gửi cho tất cả các
Quốc gia thành viên để chấp thuận.
2. Mọi sửa đổi được thông qua theo khoản 1 điều này sẽ có hiệu lực khi được
2/3 Quốc gia thành viên Công ước này thông báo với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
rằng họ chấp thuận sửa đổi đó theo trình tự pháp luật tương ứng của họ.
3. Khi sửa đổi có hiệu lực, nó sẽ ràng buộc các Quốc gia thành viên đã chấp
thuận sửa đổi đó, các Quốc gia thành viên khác vẫn bị ràng buộc bởi các quy
định của Công ước này và bất kỳ sửa đổi nào mà họ đã chấp thuận trước đây.
Điều 30.
1. Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều Quốc gia thành viên liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước này mà không thể giải quyết bằng thương lượng
sẽ được đưa ra trọng tài theo yêu cầu của một trong số các Quốc gia thành viên
đó. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ ngày yêu cầu đưa ra trọng tài mà các bên vẫn
không thể thoả thuận được về tổ chức trọng tài, thì bất kỳ bên nào cũng có thể
đề nghị đưa tranh chấp ra Toà án Công lý quốc tế, phù hợp với quy chế của Toà.
2. Mỗi quốc gia có thể, vào lúc ký, phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này,
tuyên bố rằng quốc gia đó không bị ràng buộc bởi khoản 1 điều này. Các Quốc gia
thành viên khác sẽ không bị ràng buộc bởi khoản 1 điều này đối với các Quốc gia
thành viên có tuyên bố như vậy.
3. Quốc gia thành viên đã đưa ra bảo lưu theo khoản 2 điều này có thể tuyên bố
vào bất cứ lúc nào việc rút bảo lưu đó bằng cách thông báo cho Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc.
Điều 31.
1. Quốc gia thành viên có thể rút khỏi Công ước này bằng cách gửi thông báo
bằng văn bản cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Việc bãi ước sẽ có hiệu lực sau một
năm kể từ ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được thông báo.
2. Việc bãi ước như vậy không miễn cho Quốc gia thành viên liên quan các nghĩa
vụ theo Công ước này đối với bất kỳ hành động hoặc không hành động nào xảy ra
trước ngày bãi ước có hiệu lực, cũng như không ảnh hưởng tới việc tiếp tục xem
xét những vấn đề đang được Ủy ban xem xét trước ngày bãi ước có hiệu lực.
3. Từ ngày tuyên bố bãi ước của một Quốc gia thành viên có hiệu lực, Ủy ban sẽ
ngừng xem xét bất kỳ một thông cáo mới nào liên quan tới quốc gia ấy.
Điều 32.
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các
Quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và tất cả các quốc gia đã ký hoặc gia nhập
Công ước này những vấn đề sau:
1. Việc ký, phê chuẩn và gia nhập theo Điều 25 và 26.
2. Ngày Công ước có hiệu lực theo Điều 27 và ngày những sửa đổi có hiệu lực
theo Điều 29.
3. Việc bãi ước theo Điều 31.
Điều 31.
1. Công ước này được làm bằng tiếng Ả-rập, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng
Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha, các văn bản đều có giá trị như nhau và sẽ
được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các bản sao có chứng thực của công ước
tới tất cả các quốc gia.
No comments:
Post a Comment