Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa,
RFA
2013-06-19
2013-06-19
Bản
phúc trình về "Viễn ảnh Kinh tế Toàn cầu" vừa được Ngân hàng Thế giới
công bố hôm 13 Tháng Sáu có chi tiết gây chú ý là khoản nợ quá cao của tư nhân
tại Việt Nam và cao nhất là tại Trung Quốc. Chỉ vài ngày sau, hàng loạt tin tức
quốc tế lại nói đến rủi ro của một vụ sụp đổ ngân hàng tại Trung Quốc chưa từng
thấy trong lịch sử. Chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa giải thích rằng đấy là
một hậu quả của hiện tượng ông gọi là "tầm tô".
Trái bóng tín dụng TQ
Vũ
Hoàng:
Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới về
Viễn ảnh Kinh tế Toàn cầu có gây chú ý đến một hiện tượng đáng ngại là mức nợ
quá cao của tư nhân tại một số quốc gia đang phát triển. Thuộc loại cao nhất
thì có Việt Nam nay đã mắc nợ đến 110% Tổng sản lượng, còn Trung Quốc thì lên
tới 160%. Ngay sau đó, nguồn tin tài chính quốc tế nói đến trái bóng tín dụng
của Trung Quốc có thể vỡ và gây ra một vụ khủng hoảng ngân hàng lớn lao chưa
từng thấy trong lịch sử thế giới. Ông nghĩ sao về tin này?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Chúng ta vừa chứng kiến một vụ khủng hoảng tài chính bùng nổ năm năm trước tại
các nước công nghiệp hóa Âu-Mỹ vì nạn vay tiền quá nhiều nên đến hồi trả nợ và
hậu quả là nạn suy trầm kinh tế toàn cầu. Trong giai đoạn suy trầm, nhiều quốc
gia cố gắng kích thích kinh tế qua biện pháp tăng chi và bơm tín dụng với lãi
suất rẻ và lại gây ra nạn bong bóng đầu cơ khi người ta vay tiền quá dễ mà bất
kể đến rủi ro về sau.
Riêng
tại Việt Nam và Trung Quốc là hai nước ngụy danh xã hội chủ nghĩa mà thực chất
là có nền chính trị độc tài và chính sách kinh tế lý tài thì người ta còn gặp
một hiện tượng kinh tế chính trị học gọi là "tầm tô", là đi tìm lợi
nhuận bất chính nhờ thế lực chính trị. Hiện tượng ấy gây thêm rủi ro tài chính
và kinh tế vì những kẻ tầm tô có thế lực đã trở thành nhóm lợi ích có thể cản
trở mọi giải pháp ứng phó. Rốt cục thì ta có "thảm kịch Hamlet" là
mọi người cùng chết!
Vũ
Hoàng:
Cuối tháng trước, trên một nhật báo Việt ngữ tại California ông viết về hai
hình thái kinh doanh của hai nhân vật vào đầu và cuối thời Chiến Quốc bên Tầu,
để giải thích hiện tượng "tầm tô". Bây giờ ông nhắc đến bi kịch
Hamlet của Shakespeare để bảo là ai cũng chết! Ông hay trình bày đề tài kinh tế
khô khan theo lối ví von, nhưng thưa ông, tầm tô là gì?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Người ta gọi kinh tế học là khoa học u ám và nói về chuyện u ám với thuật ngữ
chuyên môn khó hiểu thì thính giả của chúng ta càng dễ nản chí nên tôi cố trình
bày chuyện khô khan bằng hình tượng phổ biến, may ra kích thích được sự theo
dõi của mọi người.
Đầu
thời Chiến Quốc, Phạm Lãi là nhân vật ai cũng có thể biết. Sau khi giúp
Việt Vương Câu Tiễn diệt xong nước Ngô thì ông từ giã chính trị đi kinh doanh
rất thành công ở xứ khác để thành nhà tư tưởng của phái "kế hoạch
gia" tức là kinh tế. Vào cuối thời Chiến Quốc thì Lã Bất Vi nổi tiếng về
kinh doanh chính trị, nôm na là nghề buôn vua, và có thể là bố đẻ của Tần Thủy
Hoàng Đế nhưng rồi bị bạo Tần giết chết vì tội chuyên quyền. Tôi lấy hai hình
tượng khá quen thuộc đó để nói về hai hình thái kinh doanh. Thứ nhất là tạo ra
của cải và nhờ đó làm giàu, theo kiểu Phạm Lãi hay Đào Chu Công, là một tên
khác của ông ta. Thứ hai là kiếm lời mà chẳng tạo ra của cải là kiểu của Lã Bất
Vi, chỉ vì nhờ tạo cái thế chính trị.
Kinh
tế học gọi lối kinh doanh nhờ gây dựng thế lực là "đi tìm tô" hay
"tầm tô". "Tô" chỉ có nghĩa là tiền thuê, mà được hiểu rộng
là lợi nhuận nhờ làm chủ một phương tiện sản xuất. Trong trường hợp ở đây,
phương tiện sản xuất đó cũng chẳng là của mình, mà có thể sang đoạt nhờ cái
quyền độc tài chính trị để trở thành độc quyền kinh doanh!
Kinh doanh tầm tô
Vũ
Hoàng:
Chúng tôi hiểu ra ẩn dụ của ông khi nhớ đến một phương tiện sản xuất là đất đai
và chuyện cướp đất như Ô Khảm tại Trung Quốc, Văn Giang hay Tiên Lãng ở Việt
Nam. Trở lại thói "tầm tô" như ông nói thì trên lý thuyết, kinh tế
học định nghĩa thế nào về việc kinh doanh như vậy?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Lề lối kinh doanh thông thường và phổ biến là tạo ra của cải trước đó chưa có
nhờ một sáng kiến khai thác tài nguyên, sản phẩm hay một cơ hội sản xuất mới,
rồi chia của cải đó cho mình và cho người theo một tỷ lệ có giá trị lâu dài.
Hình thái kinh doanh đó góp phần cho phát triển xã hội và quốc gia. Ngược lại,
tìm cách tác động vào môi trường chính trị, luật lệ hay xã hội để kiếm lời mà
chẳng đóng góp gì cho sản xuất là loại kinh doanh tầm tô.
Hiện
tượng đó thật ra xuất hiện ở mọi nơi nhưng dễ phát triển trong xã hội chuyên
chính là nơi mà quyền lực chính trị không bị giới hạn nên dễ bị lũng đoạn từ
bên trong. Tại các nước dân chủ với luật lệ rõ ràng bình đẳng trước sự phán xét
của công luận, những ai muốn mua chuộc chính trường để kiếm lời thường khó làm
ăn và dễ vào tù. Chỉ trong các nước độc tài, chuyện tầm tô mới dễ phát đạt. Một
xứ độc tài như Việt Nam hay Trung Quốc mà theo kinh tế thị trưởng hay kinh tế
tư bản giả hiệu thì đấy là chủ nghĩa tư bản thân tộc ăn bám vào hệ thống tư bản
nhà nước và các tập đoàn quốc doanh và mở ra cơ hội tầm tô.
Vũ
Hoàng:
Thưa ông, ngày xưa khi hai xứ này còn theo đường lối tập trung quản lý bằng kế
hoạch của nhà nước thì hiện tượng tầm tô có xảy ra không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Thưa rằng cái thói cậy thể để kiếm tiền thì nơi nào cũng có cả. Nhưng trong các
nước cộng sản u mê thì tài sản chẳng có là bao và còn bị hủy hoại nên khi cả
nước còn ở vào hoàn cảnh mà các cụ ta gọi là "ăn mắm mút giòi" thì
chỉ có một thiểu số ra vào cửa hàng mậu dịch Tôn Đản của lãnh đạo còn có thể
chấm mút chút đỉnh chứ chưa có thể phát triển ra lề lối kinh doanh phổ biến.
Đặc lợi của lãnh tụ hay tay chân thật ra chẳng thầm vào đâu nếu so với mức sống
của giới trung lưu tại các nước tự do, nhờ vậy mà họ càng dễ tuyên truyền về
nếp sống an bần lạc đạo, về đạo đức cách mạng linh tinh. Riêng tại Việt Nam, sự
thể nó còn éo le hơn.
Vũ
Hoàng: Nó
éo le ở chỗ nào thưa ông?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Tầng lớp lãnh đạo thời trước kêu gọi cả nước cùng hy sinh vì lý tưởng ái quốc
là tinh thần độc lập. Nhờ vậy họ lừa được quần chúng u mê và họ còn coi sự lầm
than khắc khổ là một đức tính, so với sự thịnh vượng của miền Nam mà họ gọi là
"phồn vinh giả tạo".
Sau
khi chiến thắng và có toàn quyền áp dụng lý luận cộng sản về xây dựng xã hội
chủ nghĩa thì họ làm quốc gia phá sản và kinh tế khủng hoảng nên mới phải đổi
mới, tức là du nhập lý luận tư bản và áp dụng kinh tế thị trường. Nhưng gian ý
của chế độ là chỉ chấp nhận tự do kinh tế có chọn lọc và vẫn giữ độc quyền
chính trị nên nay mới rơi vào cái bẫy tầm tô một cách phổ biến. Chuyện éo le là
họ không thể vận dụng tinh thần độc lập và ái quốc như xưa. Vì nói đến ái quốc
hay độc lập là cả nước nghĩ đến mối nguy Trung Quốc tức là điều bị tuyệt đối
cấm kỵ.
Lãnh
đạo Hà Nội thời nay từ bỏ tinh thần đạo đức cách mạng của thế hệ trước mà vẫn
nắm chặt ách độc tài đi cùng quyền quản lý đất đai, kiểm soát thông tin, với hệ
thống đàn áp toả rộng. Họ tạo ra môi trường bất thường là nơi mà các phần tử
gọi là khôn ngoan của xã hội đều tránh nói đến chính trị mà làm giàu nhờ tác
động vào một hệ thống chính trị không ai có quyền phán xét. Đó là những kẻ tầm
tô, hợp tác với chế độ để kiếm ăn và là thành phần hữu cơ của bộ máy quyền lực
từ Thủ tướng trở xuống. Và họ đang làm chính sách kinh tế quốc dân cho quyền
lợi riêng.
Việt Nam học được gì?
Vũ
Hoàng: Thưa
ông, hình như trường hợp của Trung Quốc cũng như vậy, có phải không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Trung Quốc là nơi xuất phát khá nhiều gương xấu cho Việt Nam!
Lãnh
đạo của họ cũng khoác áo đạo đức mà con cháu đều nắm giữ vị trí then chốt về
kinh tế và kinh doanh và dùng vị trí ấy lũng đoạn thượng tầng. Hậu quả là tình
trạng mà kinh tế học gọi là "ỷ thế làm liều", nôm na là bất kể đến
rủi ro vì tin là có thể làm lệch phép nước cho tư lợi.
Nhờ
cái thế chính trị quá lớn như vậy, những kẻ tầm tô tại Việt Nam và Trung Quốc
đều làm giàu rất nhanh, được dư luận quốc tế ngơi ca là đại gia, là tỷ phú.
Nhưng thảm kịch ở đây khiến mọi người cùng chết là quảng đại quần chúng ở dưới
khó kinh doanh hay cạnh tranh trong cảnh bất cân xứng như vậy. Cho nên, muốn
thoát nghèo khốn thì phải chạy theo ảo vọng một vốn bốn lời và cũng lại cầm cố
tài sản đi vay tiền đánh bạc bên các đại gia. Họ đi vay lãi rất cao vì tin rằng
kiếm lời còn cao hơn nữa nên đang bị rủi ro rất nặng khi cả kiến trúc bất
thường này sụp đô. Vì vậy, các trung tâm thông tin và thẩm định của quốc tế mới
nói đến nguy cơ khủng hoảng tài chính tại Trung Quốc.
Vũ
Hoàng: Một
cách ngắn gọn vì thời lượng có hạn của chương trình, xin đề nghị ông trình bày
cho thính giả của chúng ta biết rằng quốc tế nói ra những gì về những nguy cơ
đó.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
Tập đoàn Fitch chuyên về thẩm định rủi ro tài chính vừa báo động là từ năm năm
qua, khối tín dụng tại Trung Quốc đã tăng từ chín ngàn lên 23 ngàn tỷ đô la, là
mức cực lớn nếu so với con số lạc quan nhất về sản lượng kinh tế của xứ này là
khoảng tám ngàn tỷ.
Nói
đến tín dụng là nói đến vay tiền mà có vay thì phải có trả. Mối nguy là do hệ
thống tài chính và ngân hàng mờ ảo của họ, nhiều khoản tài trợ lại nằm ngoài
lĩnh vực ngân hàng, thiếu sổ sách rõ ràng và trút vào hình thái kinh doanh đầy
rủi ro của nào là tư nhân, nào là công ty đầu tư của các địa phương hay các quỹ
quản lý tài sản, nôm na là quỹ đầu cơ. Vì ỷ thế làm liều, người ta đã vay tiền
đầu cơ và chất lên một núi nợ cao gấp đôi sản lượng kinh tế quốc dân. Khi núi
nợ sụp đổ mà chắc chắn là phải sụp, chúng ta sẽ thấy sự phá sản dây chuyền còn
kinh hoàng hơn những gì đã xảy ra tại Hoa Kỳ năm năm về trước. Một chỉ dấu tiên
báo là hôm Thứ Sáu 14 vừa qua, Bộ Tài chính Trung Quốc thất bại khi bán công
khố phiếu dưới chỉ tiêu về số lượng và với phân lời cao hơn. Nghĩa là các thị
trường tài chính đã bắt đầy hoài nghi về Trung Quốc.
Tại
Việt Nam thì đã đành là tình hình kinh tế cũng chẳng sáng sủa hơn mà tranh chấp
chính trị giữa các thế lực "tầm tô" đang làm chính quyền bị tê liệt.
Ngày xưa, người ta cứ nói đến tinh thần "tầm sư học đạo", ngày nay,
chính quyền mới nêu gương về cái đạo ăn cắp bằng lối tầm tô và nay mới bó tay
chờ cơn khủng hoảng.
Vũ
Hoàng: Xin
cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
No comments:
Post a Comment