5-5-2013
Dù thật sự không có ý chỉ trích
hay chê bai sản phẩm “máy bay không người lái” của “tập thể các nhà khoa học do
TS Phạm Ngọc Lãng làm chủ nhiệm” nhưng vẫn phải nói thẳng rằng cái gọi là “UAV”
vừa ra mắt ở Việt Nam chỉ đáng gọi là mô hình không hơn không kém. Chỉ cần vào
Youtube, bạn có thể xem vô số mô hình UAV của dân lắp ráp nghiệp dư (sinh viên
Mỹ hoặc nhiều nước khác) thực hiện, với thiết kế hiện đại gấp nhiều lần so với mô
hình quá đơn giản và nghèo nàn về kỹ thuật của Việt Nam. Xin nhắc lại, ở đây
không có ý chê bai, chỉ thấy nhóm nghiên cứu của ông Lãng quá tự tin, lại thêm
khẳng định của ông GS-TSKH Đỗ Trung Tá, Chủ tịch Hội đồng Chính sách khoa học
và công nghệ quốc gia, khi cho rằng “đây là sự kiện rất quan trọng, đánh dấu sự
phát triển của khoa học kỹ thuật Việt Nam”, nên có ý kiến thôi.
Việc “mạo nhận” là chế được UAV
của nhóm nghiên cứu Việt Nam cho thấy một sự tự tôn thái quá đã được thổi phồng
để che giấu cái mặc cảm tự ti còn kém quá xa so với trình độ nước ngoài mà bản
thân những người thiết kế, là dân khoa học chính hiệu, đáng lý phải biết rõ. Họ
phải biết rằng để được gọi là UAV, mẫu thiết kế không chỉ biết bay lượn (điều
này là quá đơn giản, phải nói là cực kỳ đơn giản dưới góc độ khoa học) mà còn
phải tính đến công năng thật sự. Nó làm được gì, cho trường hợp nào, quân sự
hay dân sự, mức độ hiệu quả của nó, được kiểm nghiệm thực tế ứng dụng đến đâu
rồi…?
Cần biết, kỹ thuật UAV thế giới
đã tiến ở mức xa cách Việt Nam hàng thập niên. Israel đã có (và đang sử dụng
thực tế) những UAV siêu nhỏ được đặt tên “Con muỗi” nặng chỉ 250 gr, hay loại
“Mắt chim” (“Bird-Eye”, cất cánh bằng lực phóng cánh tay) hoặc loại “Báo đen”
(“Panther”) to đến mức phải được chở bằng xe tăng, có thể bay sâu 60 km vào
chiến tuyến kẻ thù và truyền dữ liệu trực tiếp về bộ chỉ huy… Đó là chưa kể
loại “Heron-TP” nặng 4,5 tấn, có thể vừa do thám vừa tấn công. Còn ở châu Âu,
một trong những UAV đáng chú ý nhất là “Euro Hawk”, có thể bay liên tục 30
tiếng trên tầng bình lưu (hơn 18.288 m), với hệ thống camera giúp “nhìn xuyên”
mây và bão cát. Có thể nghe gần như rõ mồn một các cuộc điện thoại, xem trộm
tin nhắn điện thoại di động; bắt được tín hiệu radio và tivi…, “Euro Hawk” được
mệnh danh là “máy hút chân không” khổng lồ chuyên “hút” dữ liệu thông tin. Xin
kể thêm vài chi tiết kỹ thuật nữa. Nặng 15 tấn, làm bằng sợi carbon, UAV này
dài 14,5m với sải cánh khoảng 40m; có thể bay liên tục 25.000 km (bằng đoạn
đường từ Berlin đến Tokyo rồi ngược về mà không cần hạ cánh). Được bay thử lần
đầu ngày 29-6-2010, Euro Hawk thật ra là sản phẩm của hãng Mỹ Northrop Grumman
nhưng sau đó Northrop liên doanh với Tập đoàn hàng không-quốc phòng châu Âu
(EADS) để cho ra đời phiên bản châu Âu.
Với Mỹ thì khỏi nói. Ngày
17-2-2011, nhóm nghiên cứu thuộc hãng AeroVironment đã cho bay thử nghiệm UAV
“Nano Hummingbird” nhỏ bằng chim ruồi, được trang bị camera do thám. Bay với
vận tốc hơn 17km/g, “Nano Hummingbird” có thể dễ dàng đậu trên bậu cửa sổ hay
cành cây để ghi âm hoặc quay phim trộm. Hãng AeroVironment hiện là một trong
những chuyên gia về UAV siêu nhỏ. “Con” Raven của họ có sải cánh 1,4m và nặng
1,9kg, trang bị camera hồng ngoại, đang được dùng rộng rãi tại Afghanistan cho
mục đích do thám. Bộ binh Mỹ đã được cung cấp khoảng 4.800 UAV Raven. Ngoài ra,
AeroVironment còn có UAV “Wasp” hay “Puma” (đều được phóng bằng lực cánh tay).
Được phóng bằng lực tay còn phải kể đến “Desert Hawk” của Lokheed Martin. Với
giá chỉ 300 USD, “Desert Hawk” (sải cánh hơn 1,3m; dài hơn 91cm; nặng hơn
3,1kg) có thể bay (bằng nguồn pin) khoảng 60 phút, thực hiện nhiệm vụ thám báo
bằng camera hồng ngoại và hệ thống định vị toàn cầu. Khi được trang bị kính
đêm, “Desert Hawk” có thể quan sát rõ vật thể trong bóng tối. Tại Afghanistan,
“Desert Hawk” được dùng để canh gác quanh các căn cứ quân sự Mỹ… Có chức năng
tương tự “Desert Hawk”, UAV “ScanEagle” của Insitu (chi nhánh Boeing) có thể
bay (139km/g) hơn 20 tiếng với tầm liên lạc hơn 100km. Điểm khác biệt giữa
“ScanEagle” và “Desert Hawk” là “ScanEagle” được phóng bằng “giàn ná” (hệ thống
phóng bằng khí nén). Hải quân Mỹ được cung cấp “ScanEagle” từ năm 2005. Một
loại UAV cất cánh bằng “giàn ná” nữa là “KillerBee” của hãng Raytheon, cũng có
nhiệm vụ chủ yếu là do thám…
Và dưới đây mới là những UAV
thứ thiệt, đáng mặt UAV: Predator, Reaper hay RQ-170 Sentinel (mệnh danh “Quái
vật Kandahar”). Đặc biệt nhất là “X-47B” – một chiến đấu cơ không người lái
thật sự! “X-47B” có thể bay ở độ cao 12.190m với vận tốc siêu thanh, mang theo
hai tấn vũ khí, tầm hoạt động hơn 3.800km…
So sánh các mẫu prototype (phải
dùng từ này mới chính xác) của Việt Nam với các UAV hiện đại trên thật quá
khiên cưỡng và đây không phải là ý định của người viết. Chỉ muốn nói rằng, một
lần nữa, Việt Nam, cụ thể là nhóm của ông Lãng, nên hiểu mình đang ở đâu và
năng lực thật sự của mình đến mức nào. “Vu vạ” như thế người ta cười cho. Không
hiểu nếu những bài báo tường thuật về vụ “chế tạo thành công UAV của Việt Nam”
được dịch sang tiếng Anh thì giới khoa học thế giới sẽ ôm bụng cười mỉa như thế
nào!
-----------------------------------------
Đào Tuấn
Tháng Năm 4, 2013 in Tạp Pí Lù. 28 Comments
------------------------------------------------
Làm chủ mọi công đoạn sản xuất máy bay không người lái
8:09
AM, 05/05/2013
(Chinhphu.vn)
- Việt Nam đã trở thành một trong các nước làm chủ mọi công đoạn từ
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, vận hành, bảo dưỡng máy bay không
người lái. Từ thành công này, mở ra hàng loạt ứng dụng cụ thể trong
đời sống trong tương lai không xa.
Máy bay không người
lái phục vụ nghiên cứu khoa học do Việt Nam chế tạo
Chủ
nhiệm đề tài nghiên cứu chế tạo tổ hợp máy bay không người lái phục vụ
nghiên cứu khoa học (máy bay không người lái) là Tiến sĩ Phạm Ngọc
Lãng, Giám đốc Viện Khoa học công nghệ không gian – Viện Hàn lâm khoa
học công nghệ Việt Nam. Nhóm nghiên cứu của ông đã triển khai đề tài
này từ năm 2008.
Tất
cả linh kiện đều sản xuất trong nước
TS.
Phạm Ngọc Lãng chia sẻ: “Việt Nam đã chính thức tham gia vào nhóm các
nước thiết kế, chế tạo được máy bay không người lái. Nhiều nước đã
tiến hành nghiên cứu, chế tạo máy bay không người lái, nhưng không
phải tất cả đều thành công. Đối với Việt Nam, chúng ta đã làm chủ
hoàn toàn mọi công đoạn, quy trình từ việc nghiên cứu, thiết kế, chế
tạo, vận hành, bảo hành, bảo dưỡng máy bay không người lái”.
“Đó
là một quy trình khép kín. Chúng tôi đã chế tạo ra được những chiếc
máy bay mà gần như tất cả các linh kiện, kể cả linh kiện điện tử
đều được sản xuất tại Việt Nam” TS. Lãng nói.
Theo
đó, nhóm nghiên cứu đã tự thiết kế và làm chủ được phần mềm bay tự
động tuân thủ những chuẩn mực cao nhất của Châu Âu. Đây là thành công
rất quan trọng, đảm bảo tính “khép kín” trong quy trình nghiên cứu,
chế tạo máy bay không người lái. Đây là điều mà không nhiều quốc gia
có thể chủ động được hoàn toàn.
“Chúng
tôi cũng đã tiến hành rất nhiều thử nghiệm như đưa camera chuyên dụng
lên để quay quan sát ảnh trên mặt đất, độ phân giải ảnh đạt chính
xác tới hàng xăng-ti-mét”, TS. Lãng cho biết về ứng dụng đầu tiên
của những chiếc máy bay không người lái.
Theo
vị “cha đẻ” của máy bay không người lái, nhóm nghiên cứu của ông đã
đã sản xuất được 5 loại máy bay không người lái.
Loại
lớn nhất có chiều dài 4,20m, sải cánh 5,0m. Khối lượng tối đa của máy bay
là 170kg, trong đó khối lượng tải có ích là 50kg. Như vậy, máy bay hoàn
toàn có thể mang theo các thiết bị chuyên dùng ở rất nhiều lĩnh vực.
Loại máy bay này có thể bay cao tối đa 3000m, tốc độ lớn nhất 180km/h.
Bán kính hoạt động là 100km, thời gian hoạt động liên tục trên không là
6h, bay cả ban ngày và ban đêm.
“Tầm
bay của máy bay có thể được mở rộng trên một khu vực rộng lớn, kể
cả trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam nếu sử dụng các trạm chuyển
tiếp mặt đất hoặc dùng tín hiệu điều khiển vệ tinh” TS. Lãng cho
biết.
Loại
máy bay nhỏ nhất chỉ dài 1,0m, sải cánh 1,2m. Tuy chỉ có khối lượng tối
đa 4kg nhưng máy bay có thể mang tới 1kg, tức là đủ sức mang theo mình
những thiết bị quan sát chuyên dụng. Bán kính hoạt động của chiếc máy
bay “hạt tiêu” này là 2km, đạt độ cao tối đa 200m, tốc độ lớn nhất 70
km/h. Máy bay có thể hoạt động liên tục trên không trong 1 giờ. Trước
mắt, loại máy bay này được trang bị camera chuyên dụng, cự ly truyền 2km.
TS.
Lãng cho biết, loại máy bay này có thể cất cánh không cần đường
băng, thậm chí ném bằng tay cũng có thể bay lên được.
“Loại
máy bay này có ý nghĩa rất quan trọng dùng để quan sát các mục tiêu
như các tòa nhà cao tầng trong thành phố vào ban đêm, quan sát trong
điều kiện cần ngụy trang, quan sát các mục tiêu nhỏ trên mặt đất…”
TS. Lãng nói.
“Chúng
tôi đã thử nghiệm thành công cả 5 loại máy bay nêu trên, bay biểu diễn
công bố thành công 3 loại. Từ ngày 27/4 đến 3/5, chúng tôi đã bay 115
chuyến, chỉ có 2 lỗi và đều đã khắc phục ngay”, TS. Lãng cho biết.
TS. Phạm Ngọc Lãng
cho biết sẽ sớm đưa vào ứng dụng các loại máy bay này
Sớm
đưa vào ứng dụng
Trong
thời gian ngắn sắp tới, những chiếc máy bay không người lái sẽ được
đưa vào ứng dụng trong các chương trình bay khảo sát địa chất, đo, vẽ
bản đồ, phát hiện chặt – phá rừng, quan sát bảo vệ những cá thể
động thực vật quý hiếm, quan sát đập thuỷ điện, đường dây 500 KV, quan
sát ảnh hưởng của biến đổi khí hậu…
Ngay
trong tháng 5 này, nhóm nghiên cứu của TS. Lãng sẽ cùng với Viện Vật
lý địa cầu thực hiện các chuyến bay lấy mẫu khí quyển trên các
tầng điện ly.
“Những
nhiệm vụ này hiện nay chúng ta phải dùng máy bay có người lái để
thực hiện, rất tốn kém. Nay nếu bay bằng máy bay không người lái, chi
phí sẽ giảm đi rất đáng kể”, TS. Lãng khẳng định.
Trò
chuyện với phóng viên về hướng nghiên cứu tiếp theo, TS. Phạm Ngọc
Lãng cho biết, ông cùng với nhóm nghiên cứu sẽ tập trung hoàn thiện 5
loại máy bay nêu trên hơn nữa theo hướng mở rộng tầm bay, trần bay của
cả 5 loại máy bay nêu trên. “Chúng tôi cũng sẽ nghiên cứu để đưa những
loại thiết bị chuyên dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau lên máy bay”.
Xa
hơn nữa, vị Giám đốc của Viện khoa học công nghệ không gian Việt Nam
không giấu tham vọng muốn tiếp cận công nghệ chế tạo vệ tinh quỹ đạo
thấp, phục vụ cho các mục đích kinh tế, xã hội.
*
Tính năng của 5
loại máy bay do Viện Khoa học công nghệ không gian chế tạo
AV.UAV.MS1:
Chiều dài 1,0m; sải cánh 1,2m; khối lượng tối đa 4kg; tải có ích 1kg, bán kính
hoạt động 2km, trần bay 200m; tốc độ lớn nhất 70 km/h; thời gian hoạt động trên
không 1h, được trang bị camera chuyên dụng, cự ly truyền 2km.
AV.UAV.S1:
Chiều dài 1,80m; sải cánh 2,70; khối lượng tối đa 12,0kg; khối lượng tải có ích
1,5kg; bán kính hoạt động 15km, trần bay 3000m; động cơ 45cm3; tốc độ lớn nhất
120 km/h; thời gian hoạt động trên không 2h; đường cất hạ cánh 50m; có thể cất
cánh bằng bệ phóng, hạ cánh bằng dù; truyền ảnh online từ camera khoảng cách
15km.
AV.UAV.S2:
Chiều dài 2,60m; sải cánh 3,20m; khối lượng tối đa 45kg; tải có ích 15kg, động
cơ 80cm3; tốc độ lớn nhất 150km/h; trần bay 3000m; đường cất, hạ cánh 200m; có
thể cất cánh bằng bệ phóng, hạ cánh bằng dù; thời gian hoạt động trên không 3h.
AV.UAV.S3:
Chiều dài 3m; sải cánh 3,4m; khối lượng tối đa 115kg; khối lượng tải có ích
35kg; bán kính hoạt động 70km; trần bay 3000m; động cơ 350cm3; tốc độ lớn nhất
180km/h; thời gian hoạt động trên không tối đa 5h.
AV.UAV.S4:
Chiều dài 4,20m; sải cánh 5,0m; khối lượng tối đa 170kg; khối lượng tải có ích
50kg; bán kính hoạt động 100km; trần bay 3000m; động cơ 400 cm3; tốc độ lớn
nhất 180km/h; thời gian hoạt động trên không 6h; bay cả ban ngày và ban đêm
Xuân
Tuyến
No comments:
Post a Comment