Nguyễn
Vĩnh Châu & Vũ Ngự Chiêu
Posted
on May 22, 2013 by editor—24
Comments
http://dcvonline.net/2013/05/22/vu-ngu-chieu-nhung-nghien-cuu-lich-su-lien-quan-den-ho-chi-minh-ket/
Bắc
Kinh và Hà Nội thường nói về tình “môi hở, răng lạnh,” hay “viện trợ không kèm
móc câu hay thòng lọng.” Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu và
thòng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu đựng.
Tiếp theo phần I
NVC: Theo ông thì
trong cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không?
VNC: Trước khi nói đến
trách nhiệm của HCM hay Ðảng CSVN, cần tìm hiểu rõ ràng về vai trò cải cách
ruộng đât trong các xã hội nông nghiệp, rồi đến trường hợp cá biệt Việt Nam.
A.
Cải cách ruộng đất [CCRÐ] – tức làm sao có sự phân phối ruộng đất hợp lý để nông
dân có đất cày cấy – là điều quan tâm hàng đầu của những nhà cai trị các xã hội
nông nghiệp muốn dân giàu, nước mạnh.
Trong
Ðường Kách Mệnh, HCM từng viết:
2.
Tây đồn điền choán ruộng cách nào?
Nhiều
cách.
Phần
thì Tây đồn điền cướp, phần thì các nhà thờ đạo chiếm. Các cố đạo chờ năm nào
mất mùa, đem tiền cho dân cày vay. Chúng nó bắt dân đem văn khế ruộng cầm cho
nó và ăn lời thật nặng. Vì lời nặng quá, đến mùa sau không trả nổi, thì các cố
xiết ruộng ấy đem làm ruộng nhà thờ.”[ 73]
3.
Chính phủ Pháp đãi dân cày An Nam thế nào?
Tư
bản Tây và nhà thờ đã choán gần hết đất ruộng, còn giữ được miếng nào thì chính
phủ lại đánh thuế thật nặng, mỗi năm mỗi tăng.[ 73] 10 phần lấy mất một.[ p.73]
Mua
rẻ nhân dịp dân phải đóng thuế; xuất cảng. Nó chở đi chừng nào, thì dân ta chết
đói nhiều chừng ấy.
4.
Bây giờ nên làm thế nào? phải tổ chức nhau để kiếm đường giải phóng.[ 74]
5.
Cách tổ chức dân cày thế nào?[ 74] Bất kỳ tiểu điền chủ trở xuống đều được vào;
(trừ đại địa chủ, mật thám, cố đạo, say mê rượu chè, cờ bạc và a phiến)[74]
Nông
hội chống rượu chè, a-phiến khiến mất giống nòi.
Biết
kách mệnh tinh thần, kách mệnh kinh tế, thì kách mệnh chính trị cũng không
xa.Từ đầu thập niên 1930, cải cách ruộng đất, hay cách mạng thổ địa, là một
chiêu bài của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Những khẩu hiệu như “Thanh trừ trí phú
địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” được nêu ra từ cuộc nổi dạy 1930-1931 tại
Nghệ-Tĩnh và Nam Kỳ, và thống trị các tài liệu tuyên truyền của Ðảng CSÐD cho
tới năm 1935-1936. Lý luận Marxist-Leninist phía sau chiêu bài sắt máu này là
cuộc đấu tranh giai cấp giữa liên minh nông-công chống lại và tiêu diệt giai
tầng địa chủ phong kiến, nhằm thủ tiêu hệ thống sản xuất cổ truyền, tiến tới
việc xây dựng một xã hội công bằng mà ai nấy đều được hưởng tương ứng với những
gì mình sản xuất, trên đường tiến đến xã hội Cộng Sản, ở đó ai nấy đều làm theo
khả năng, được hưởng theo nhu cầu.
Vì
mục tiêu cuối cùng – tức xã hội cộng sản, nơi nhà nước bị thăng hoa, chỉ có
những người lao động sản xuất tự quản lý công hữu–chưa đủ điều kiện chào đời,
Ðảng Cộng Sản và liên minh công-nông tiếp tục duy trì nhà nước chuyên chính vô
sản, hay “dân chủ tập trung,” thẳng tay tiêu diệt giai cấp địa chủ phong kiến,
lấy đất chia cho người nghèo, để họ tự làm chủ. Những nhà tiểu tư sản mới này
sẽ giúp tăng gia sản xuất lương thực, tạo nên thặng dư để góp vốn vào việc công
nghệ hóa nền kinh tế. Sự phát triển đồng thuận và song hành này sẽ giúp đất
nước sớm hiện đại hóa, nâng cao đời sống công nông, phát triển nền văn hóa lành
mạnh.
B.
Ðấu tranh Giảm Tức, Giảm Tô
Từ
năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] đã bắt đầu phát động
chính sách đòi hỏi giảm tô (tức giảm tiền thuê ruộng đất) và giảm tức (giảm
tiền vay lãi), nhưng có nơi thi hành, nơi không. Một trong những lý do chính là
giai đoạn 1945-1946 còn có những nhu cầu và khó khăn, phức tạp cần giải quyết,
liên hệ đến chính sự sinh tồn của chế độ.
Từ
đầu năm 1947 tới năm 1949, chính sách nông thôn của Hồ chưa có thay đổi đáng
kể, ngoại trừ những biện pháp tận thu, giảm chi, trên nguyên tắc “chớ nên mị
dân.” Tuy nhiên, chiến thắng của Mao Trạch Ðông ở Hoa lục (1949) và sự thành
hình của “giải pháp Bảo Ðại” (1948-1949) khiến Hồ chẳng còn lựa chọn nào khác
hơn trở lại với khối tân Quốc tế Cộng Sản (Cominform), do Liên Sô Nga lãnh đạo.
Bên cạnh những chuẩn bị tái lập Ðảng Cộng Sản Ðông Dương (dưới tên mới Ðảng Lao
Ðộng Việt Nam từ năm 1949-1951), và do nhu cầu tăng gia thu nhập cũng như củng
cố sự yểm trợ của giới nông dân (bần cố nông và bần nông), từ đầu năm 1949,
BTV/TW Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mã Khắc Tư ra Chỉ thị ngày 3/1/1949 cho các Khu
ủy về sách lược vận động tranh đấu bắt các địa chủ giảm tô 25% như chính phủ
qui định. Mục tiêu lần này được mở rộng tới các địa chủ “công giáo, và chỉ thị
trên còn qui định việc giảm tiền xin lễ, nhưng tránh không chạm đến tín
ngưỡng.” (VKÐTT, 10, 2001:176-177)
Ðầu
tháng 6/1949, BTV/TW lại gửi điện ngày 1/6/1949 cho Liên khu [LK] IV về phong
trào khuyến khích địa chủ hiến đất. (VKÐTT, 10, 2001:241) Ngày 14/7/1949, HCM
ký Sắc Lệnh Giảm Tô. Ngày 14/10/1949, BTV/TW ra chỉ thị tạm cấp ruộng đất của
Việt Gian cho người nghèo. (VKÐTT, 10, 2001:299-303) Ngày 22/10/1949, BTV/TW
chỉ thị LK IV vận động giảm tô 25%. (VKÐTT, 10, 2001:307-308)
Ngày
18/11/1949, BTV/TW ra Thông tri về việc chấn chỉnh tổ chức nông dân: Khéo léo
đưa địa chủ ra khỏi Hội Nông Dân Cứu Quốc bằng cách tổ chức vào những hội khác
(Phụ lão, Liên Việt) Thành phần BCH HNDCQ phải có bần cố nông, có người trẻ.
Không nên có phú nông; nếu có chỉ để làm vì. Ra sức tổ chức Hội nông dân trong
vùng Công Giáo. [Lê Văn Lương]. (VKÐTT, 10, 2001:314-315)
Ngày
5/7/1950,Trường Chinh đọc báo cáo về chính sách nông thôn tại phiên họp mở rộng
của Ban Kinh tế TW [5 tới 7/7/1950]. (VKÐTT, 11, 2001:591- 626) Ngày 17/7/1950:
Ban Thường vụ TW chỉ thị “hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức.”
Tại
Ðại hội tái lập Ðảng CS [Lao Ðộng] vào tháng 2/1951, Tổng Bí thư Trường Chinh
nhấn mạnh là CCRÐ chỉ nhắm vào giảm tô, giảm tức. Ðịa chủ hiến đất đai. Kháng
chiến thắng lợi sẽ CCRÐ. [Ngày 16/4/1951 Hồ Viết Thắng được cử làm trưởng Tiểu
ban Nông vận (còn có Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Ðức Thịnh, Ca,
Nông, Di, Ðào). (VKÐTT, 12, 2001:526- 527)]
Ngày
22/4/1952, Hội nghị TW lần thứ ba của ÐLÐVN [22 tới 28/4/1952] vẫn còn ra nghị
quyết: “Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.” (VKÐTT, 13, 2001:65- 75) Về
chính sách ruộng đất sẽ tập trung vào giảm tô, giảm tức, lôi kéo địa chủ; tịch
thu ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo. Chưa thủ tiêu bóc lột
phong kiến. ( VKÐTT)13, 2001:118- 128).
C.
Chính thức phát động CCRÐ
Năm
1952, Mao Trạch Ðông mời Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh, ép phải cải cách ruộng đất.
Ðồng thời thực hiện chỉnh quân, chỉnh huấn. (Hoan, 1987:359-367). Ngày
15/8/1952, Ban Bí thư [BBT] Ðảng LÐVN ra chỉ thị bổ sung chỉ thị 37 về chính
sách ruộng đất: Từ nay “Dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông,
liên minh với phú nông, lôi kéo hoặc trung lập một số địa chủ, đánh đuổi đế
quốc và đại địa chủ phong kiến phản động.”(VKÐTT, 13, 2001:239) Ngày
25/11/1952, BBT ra thông tri về việc điều tra nông thôn. (VKÐTT, 13, 2001:347-
360)
Ðầu
năm 1953, Trung Cộng cử Kiều Hiểu Quang, Phó Bí thư Quảng Tây, phụ trách đoàn
cố vấn cải cách ruộng đất. (Theo Hoàng Tùng, La Quí Ba cũng ép Hồ phải đấu tố
Nguyễn Thị Năm, tức Cát Thành [Hanh] Long. “Mấy ngàn người bị xử tử.” (Tài liệu
truyền tay ký tên Hoàng Tùng. Hoàng Tùng phục vụ trong Ban Tuyên huấn của
Trường Chinh, nên có những thông tin đặc biệt. Theo tài liệu đã dẫn, HCM rất
bất mãn về áp lực của Bắc Kinh, nhưng không dám chống đối. Xem thêm infra.)
16/4/1951:
Nghị quyết ngày 16/4/1951 của BCH/TW về việc thành lập các ban và tiểu ban giúp
việc:Ban Tuyên huấn: Trường Chinh, Phạm Tô, Tố Hữu, Trần Quang Huy, Hoàng Tùng,
Xuân Thủy, Lê Quang Ðạo, Nguyễn Chương, Nguyễn Khánh Toàn, Minh Tranh.
Ban
Mặt Trận: Hoàng Quốc Việt, Thoại Sơn, Hồ Viết Thắng, Xuân Thủy, Trần Cung, Lê
Thành Lập, Dương Bạch Mai.
Ban
Kinh tế-Tài chính: Phạm Tô, Cù Vân, Trần Ðăng Ninh, Hồ Viết Thắng, Lê Văn Hiến,
Ðặng Việt Châu, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Trần Danh Tuyên, Nguyễn Ðức
Thụ.Tiểu ban Nông vận: Hồ Viết Thắng, Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần
Ðức Thịnh, Ca, Nông, Di, Ðào. (VKÐTT, 12, 2001:526- 527)
Cũng
có nhân chứng cho rằng cuối tháng 3/1950, khi từ Bắc Kinh trở lại Tuyên Quang,
Hồ tuyên bố với Ban Thường vụ Trung ương Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư
(tức Ðảng CSÐD, đã được bí mật tái khai sinh từ năm 1948-1949) là Stalin muốn
làm cách mạng thổ địa, và Hồ muốn làm cách mạng thổ địa với sự tiếp tay của TC.
(Võ Nguyên Giáp, CÐTVV, 2001:349-350) Một tài liệu TC ghi ngày 5/3/1953, khi
cùng HCM [dưỡng bệnh ở TH] rời Bắc Kinh về VN, Vi Quốc Thanh được HCM kể lại
những chi tiết về chuyến qua Mat-scơ-va cuối năm 1952, và ý định thực hiện
CMTÐ, theo lệnh Stalin. “Không thể đứng giữa một ngọn đòn sóc. (Vu Hóa Thẩm
[Vương Chấn Hoa], “Vi Quốc Thanh,” (Vu Hóa Thẩm, LQB, 2008:59)
D.
Hội nghị kỳ 4 Ðảng LÐVN (25-30/1/1953)
Theo
tài liệu chính thức của Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tư Trung ương
Ðảng LÐVN (25-30/1/1953) đã quyết định tiến hành cải cách ruộng đất, tức phong
trào đấu tố (rập khuôn Trung Cộng).
Ngày
25/1/1953, HCM đọc báo cáo về tình hình trước mắt và nhiệm vụ CCRÐ. Triệt để
giảm tô, tiến tới CCRÐ. Theo Hồ, từ 1945, đã thực hiện giảm tô, nhưng tới nay
chưa đúng mức: có nơi giảm, nơi chưa giảm. Nay phải triệt để thực hiện giảm tô.
Phải phát động quần chúng nông dân tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để
giảm tô giảm tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Ðảng và chính phủ
phải lãnh đạo, tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau đó sẽ cải cách ruộng đất. Nông
dân là nền tảng của vấn đề dân tộc, và cũng là nền tảng của cách mạng dân chủ
chống phong kiến, chống đế quốc. Muốn kháng chiến thắng lợi phải nâng cao quyền
lợi kinh tế và chính trị của nông dân, chia ruộng đất cho nông dân. CCRÐ sẽ
giúp Ðảng LÐ Việt Nam giải quyết nhiều vấn đề:
Về
quân sự: Nông dân hăng hái tham gia bộ đội; đồng thời làm tan rã ngụy quân.
Về
kinh tế-tài chính: nông dân đủ ăn đủ mặc, sẽ giúp phát triển công thương
nghiệp, hăng hái đóng thuế nông nghiệp.
Về
chính trị: Nông dân nắm ưu thế trong làng xã, “nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ
được thực hiện rộng khắp và chắc chắn.”
Về
văn hóa: “có thực mới vực được đạo.” Nông dân no đủ sẽ phát triển văn hóa.
Những
vấn đề như thương binh, công an nhân dân dễ giải quyết.
Về
Mặt Trận Liên Việt: Nông dân sẽ chiếm đa số, cơ sở công nông liên minh vững
chắc hơn.
Ðấu
tranh triệt để giảm tô giảm tức làm đà cho CCRÐ.
CCRĐ: đấu tố. Nguồn:
Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS
CCRĐ: đấu tố. Nguồn:
© The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS
Cải cách ruộng đất:
đấu tố. Nguồn: Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS
E.
Hồ nêu lên kinh nghiệm CCRÐ ở Trung Hoa
Tới
cuối năm 1952, đã hoàn thành CCRÐ, chia đất cho nông dân. Hơn 500,000,000 nông
dân được chia hơn 700 triệu mẫu ruộng. Nông dân giữ lại được hơn 30 triệu tấn
thóc địa tô. Hăng hái tăng gia sản xuất: Năm 1950 lương thực tăng 20% so với
năm 1949; năm 1952 tăng 40%. Thành phần xã hội thay đổi rất nhiều: trung nông
tăng từ 20% tới 80%; bần nông giảm từ 70% xuống còn 10-20%. Về chính trị, chỉ
tại bốn khu Hoa Trung, Trung Nam, Tây Nam và Tây Bắc nông hội đã có hơn 88
triệu hội viên, trong đó hơn 30% là phụ nữ; 60% đến 80% nông dân tổ chức thành
những đội đổi công, hợp tác xã. Nông dân trở thành trụ cột của chính quyền ở
nông thôn; nhân dân dân chủ chuyên chính và công nông liên minh trở nên vững chắc.
Công nghệ và thương nghiệp mau phát triển; văn hóa cũng lên vùn vụt. Hơn 49
triệu trẻ em nông dân được đi học. Vì trình độ giác ngộ lên cao, phong trào
chống tham ô lãng phí, quan liêu và chống Mỹ, giúp Triều nông dân hăng hái tham
gia. (HCMTT, 7:1953-1955, 1996:8-9.
Thực
ra HCM không hoặc không muốn nói đến thực trạng sắt máu của bài học CCRÐ Trung
Hoa. Từ ngày 1/10/1949 tới cuối tháng 8/1951, có tới 28,000 bị hành quyết tại
Quảng Ðông. Trong nửa năm đầu 1951, khoảng 800,000 phiên tòa xét xử phản cách
mạng, và 135,000 người bị tử hình. Từ 1949 tới 1952, khoảng 2 triệu người bị
hành quyết. Hơn 2 triệu người khác bị gửi vào các trại cải tạo. ( Maurice
Meisner, Mao’s China, 1977:81).
Năm
1952, Mao và Ðảng CSTH đã khiến giai cấp đại địa chủ ngừng hiện hữu, nhưng cả
Mao lẫn Hồ, đều hiểu rằng CCRÐ chưa phải là cách mạng XHCN. Theo lý luận
Marxist-Leninism, đây mới chỉ là giai đoạn “tư sản” [bourgeoisie] của cách
mạng, hay cái gọi là “Tân Dân Chủ” của Mao. Nói theo Marx, “chế độ Bonaparte
[Pháp] là triều đại của nông dân.”
Mục
tiêu chính của Mao chỉ là: mở rộng cơ sở ủng hộ; kiểm soát hành chính xuống các
xã thôn; làm gia tăng mức sản xuất nông phẩm. Bài diễn văn ngày 14/6/1950 của
Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ] hầu như đã được phỏng dịch lại trong bản báo cáo của HCM:
thực hiện CCRÐ từng bước với sự thận trọng và biệt phân, trong khi lượng sản
xuất nông phẩm gia tăng; phải dựa vào bần và cố nông, liên minh với trung nông,
và vô hiệu hóa phú nôngHồ cũng không nhắc gì đến những con sóng bạo lực và sự
phẫn nộ của 20 triệu người Hoa bị “vạch thành phần” là địa chủ, sự chống đối
của họ [107- 108]. Bi thảm hơn nữa là dù CCRÐ đã hoàn tất, tình trạng nghèo khổ
của nông dân TH không thay đổi. Chỉ có Ðảng CSTH đại thắng khi thay thế những
kỳ hào cũ của các thôn xã bằng những người trẻ trung hơn, giúp đẩy mạnh việc
trung ương tập quyền cho Ðảng và Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc. Ðồng thời
chuẩn bị cho bước tái tổ chức kế tiếp, tức tập trung sản xuất
[collectivation].Trường Chinh báo cáo về mục đích, ý nghĩa, phương châm, phương
pháp và kế hoạch thực hiện CCRÐ. (VKÐTT, 14:30- 83.
Ngày
30/1/1953, ra Nghị Quyết “Thẳng tay phát động triệt để giảm tô.” (VKÐTT,
14:128- 132)
CCRĐ, đấu tố, bên Trung Hoa. Nguồn: OntheNet
F.
Ngày 5/2/1953, Trường Chinh ra chỉ thị về cách phổ biến Nghị Quyết của Hội nghị
lần thứ tư BCHTW (khóa II)
Chỉ
phổ biến CCRÐ tới cấp khu ủy và đại đoàn ủy, nhưng tạm thời giữ bí mật thời
điểm thực hiện. Cấp tỉnh ủy và trung đoàn ủy chỉ nói giảm tô, tiến tới CCRÐ.
Cấp dưới, không nói đến CCRÐ, chỉ nói đến 5 công tác trong năm 1953. (VKÐTT,
14:136-137).
Trong
khi đó, Hồ liên tục xuất hiện phát động các kế hoạch rập khuôn Trung Cộng khác:
Ngày 5/2/1953, HCM nói chuyện trước Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc. Hôm
sau, 6/2/1953, HCM nói chuyện trước lớp chỉnh huấn cán bộ Ðảng, Dân, Chính ở cơ
quan TW. Hồ nhắc nhủ các cán bộ: “Ngồi giữa hai ghế thì nhất định sẽ ngã.”
Ngày
22/4/1953, Ban Bí thư ra chỉ thị v/v 10 điều kỷ luật của cán bộ khi thi hành
CCRÐ. Ngày 24/4/1953, Ban CHTW ra Chỉ thị v/v phát động quần chúng trong năm
1953.
Chỉ
thị của BCT ngày 4/5/1953 v/v Mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng trong
năm 1953 phản ảnh khía cạnh sắt máu của kế hoạch CCRÐ:
Trừng
trị địa chủ phản động và gian ác
Mức
thoái tô, dây dưa tiền công
Tước
vũ khí của địa chủ [vụ đồn điền Vũ Ngọc Hoành]
Yêu
cầu về trình độ tổ chức trong cuộc phát động quần chúng
Chỉ
thị số 43/CT/TW của BCT ngày 10/6/1953 v/v Hướng dẫn công tác phát động quần
chúng. (VKÐTT, 14:223- 234. Theo tin quân sự Pháp, thời gian này tại miền Bắc,
Pháp chỉ kiểm soát được 1,129 làng (trên tổng số 7,000 làng). (10H 282).
Phản
ứng của dân chúng, và nhất là cán bộ cực kỳ xúc động. Ngày 29/6/1953, Thông Tri
của Ban Bí thư về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng. ghi nhận “Ngay đến
một số cán bộ lãnh đạo chưa thấm nhuần đường lối của CP. Nhiều nơi, địa chủ và
ngay cả phú nông, trung nông tự tử.”( VKÐTT, 14: [tr. 246])
Ngày
3/7/1953, để trả lời những thắc mắc như “có CCRÐ trong kháng chiến hay không?,”
BCT khẳng định Hội nghị TW lần thứ 4 (1/1953) đã quyết định CCRÐ trong kháng
chiến.
G.
Luật CCRÐ 19/12/1953
Trung
tuần tháng 11/1953, tại Hội nghị lần thứ 5 BCH/TW Ðảng LÐVN và Hội nghị Toàn
quốc lần thứ nhất Ðảng LÐVN (14-23/11/1953), kế hoạch CCRÐ được chính thức công
bố. Bước kế tiếp chỉ còn là việc của Quốc Hội. Ngày Thứ Ba, 1/12/1953, Quốc Hội
VNDCCH họp khóa thứ ba [tới 4/12/1953]. HCM tham dự. Ðọc báo cáo về tình hình
thế giới, kháng chiến và CCRÐ.
Trên
mặt trận tuyên truyền, người ta chỉ được giải thích là lấy ruộng đất của “địa
chủ phong kiến, Việt Gian ác ôn” chia cho người nghèo, với khẩu hiệu người cày
có ruộng. Trên thực tế, để tiêu diệt cái gọi là chế độ sản xuất phong kiến,
chính phủ Hồ áp dụng “công lý bần nông,” tức các phiên tòa đấu tố, bắt ép những
người bị qui [vạch] vào thành phần địa chủ, cường hào, ác ôn hay Việt Gian phải
nhận cả những tội lỗi họ chưa bao giờ vi phạm; rồi sau đó xử tử hình, hạ tầng
công tác hay tập trung cải tạo.
Ðợt
thí nghiệm ở Thái Nguyên (dân số 10,781 người) từ tháng 12/1953 tới tháng
3/1954. Tịch thu, trưng thu, trưng mua 2,609 mẫu cho 6,089 nông dân. (VKÐTT,
15:1954, p. 201).
Số
nạn nhân của kế sách CCRÐ được ước lượng từ 15,000 tới 50,000 người. (Catton,
2002; Brocheux, 2003:225).
Cần
nhấn mạnh, mục tiêu chiến lược của CCRÐ vào thời gian này: bên cạnh quyết tâm
“tiêu hủy giai cấp địa chủ phong kiến,” nhắm mở rộng sự kiểm soát các làng xã,
tiêu diệt khả năng chống đối của địa chủ, gia tăng thu nhập lương thực và thuế,
gia tăng số người nhập ngũ và “dân công” phục vụ nhu cầu chiến trường (lên tới
hơn 100,000 trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ). Mãi tới sau đợt cải cách ruộng đất
thứ 5 vào mùa Xuân-Hè 1956–trong không khí chống đối, bất mãn khắp nơi, kể cả
biến cố nông dân Quỳnh Lưu nổi dạy, Võ Giáp phải mang quân lính đến đánh dẹp–Hồ
mới họp Hội nghị TWÐ lần thứ 10 (khóa II, 8-10/1956), nhìn nhận khuyết điểm, tự
chỉ trích và phê bình; rồi tự mình thay Trường Chinh làm Tổng Bí thư, và trừng
phạt chiếu lệ những cán bộ điều khiển chính sách cải cách ruộng đất. (TTLTQG 3
(Hà Nội) có một số tư liệu của Kho Quốc Hội đã giải mật. Bộ Văn Kiện Ðảng Toàn
Tập cũng in lại khá đầy đủ những nghị quyết và chỉ thị cơ bản về chính sách
CCRÐ của Ðảng Cộng Sản từ năm 1949 tới 1957. Xem, Chính Ðạo, “Mặt Trận Nông
Thôn: Từ Cải Cách Ruộng Ðất tới Ấp Chiến Lược;” Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng,
tập II (Houston: Văn Hóa, đang in).
HCM
đã chịu áp lực của Bắc Kinh để thực hiện việc cướp đoạt tập thể tài sản dân
chúng này. nhưng qui trách cho sai lầm của Trường Chinh, không phải do các cố
vấn TQ. (Hoan, 1987:366-367)
Kết
luận sơ khởi của chúng tôi là cuộc cách mạng thổ địa vừa từ trên xuống (theo
nghĩa do đảng LÐVN lãnh đạo, phát động, tổ chức và kiểm soát) vừa từ dưới lên
(bạo lực tự phát của giới nông dân nghèo khổ, ao ước được chia đều phương tiện
sản xuất, kể cả đất đai) chỉ mới thành công về chính trị và quân sự hơn kinh tế
và xã hội hay văn hóa.
NVC: Trong vụ án
“Nhân Văn-Giai Phẩm”, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không?
VNC: Vụ án Nhân Văn-Giai
Phẩm là hậu quả đương nhiên của quyết định độc quyền cai trị bằng họng súng của
Ðảng CSVN. Là Chủ tịch Ðảng và Nhà Nước, HCM chịu trách nhiệm. Riêng với HCM,
đó còn là sự phản bội chính những đòi hỏi thuở trung niên của Hồ.
NVC: Còn về vụ thảm
sát Tết Mậu Thân ở Huế, ông Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm gì không?
VNC: Thời điểm này, HCM
hầu như không còn thực quyền. Lê Duẩn-Lê Ðức Thọ đã nắm hết quyền lực. Vấn đề
đặt ra là liệu những viên chức địa phương đã vượt qua chỉ thị vào tháng 1/1968
của Lê Duẩn? (Phá cho tan hậu cứ VNCH, tức các đô thị).
NVC: Hiện tại, nhiều
đồng bào trong nước cũng như hải ngoại rất quan tâm và bất bình về vấn đề mất
đất, mất các quần đảo do Trung Cộng chiếm đoạt. Vậy, theo ông thì ông Hồ Chí
Minh có trách nhiệm gì không?
VNC: Dĩ nhiên là có. HCM
là người cầm đầu Ðảng và Nhà Nước. Thư ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Ðồng gửi Chu
Ân Lai – tự nguyện nhìn nhận biên giới do Trung Cộng tự vẽ, với những dấu chấm
ở vùng lãnh hải phía Nam – phải được sự phê chuẩn của HCM và Bộ Chính Trị Ðảng
Lao Ðộng Việt Nam như Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Thọ, v.v.
Bắc
Kinh và Hà Nội thường nói về tình “môi hở, răng lạnh,” hay “viện trợ không kèm
móc câu hay thòng lọng.” Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu và
thòng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu đựng.
NVC: Qua những điều
đã trình bày thì theo ông, Hồ Chí Minh đã để lại di sản gì cho Dân Tộc Việt
Nam?
VNC: Một di sản buồn.
Ba
mươi năm chiến tranh, hàng triệu người chết và thương tật, sự tàn phá của làng
mạc, ruộng vườn, đất đai. Và mối hận thù khó nguôi của các giai tầng xã hội.
Một
tương lai, mù sương, trong cuộc hành trình vô định, đầy thử thách từ một xã hội
nông nghiệp, nửa thực dân nửa phong kiến đã chết, tới một thể chế chưa đủ khả
năng chào đời.
Từ
năm 1991 bắt đầu nhập cảng thứ lý thuyết Marxist bị Hán hóa từ phương Bắc, và
thay thế bảng hiệu “tư tưởng Mao Trạch Ðông, lý luận Ðặng Tiểu Bình” bằng “tư
tưởng Hồ Chí Minh.”
NVC: Nói tóm lại,
theo ông thì Hồ Chí Minh có công hay có tội đối với dân tộc Việt Nam?
VNC: Có lẽ còn quá sớm
để đánh giá HCM.
Vấn
đề tùy thuộc ở những gì những người kế vị HCM sẽ thực hiện trong tương lai.
Houston,
1/2009
DCVOnline
minh họa.
Trích: "HCM đã chịu áp lực của Bắc Kinh để thực
hiện việc cướp đoạt tập thể tài sản dân chúng này. nhưng qui trách cho sai lầm
của Trường Chinh, không phải do các cố vấn TQ. (Hoan, 1987:366-367)"
Ông Hồ Chí Minh bị áp lực của Bắc Kinh nên phải làm Cải
Cách Ruộng Đất! Giờ thì có người nói ông Hồ Chí Minh bị áp lực của Bắc Kinh nên
phải nhường Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc! Áp lực đó là gì, nếu không nghe
lời thì sao?
Cải Cách Ruộng Đất không chỉ tịch thu tài sản của dân
chúng mà còn phá nát cơ cấu các giai cấp trong xã hội. Đây mới là mục đích
chính. Đi cùng với việc tịch thu tài sản là chính sách tuyên truyền xem địa
chủ, nhà giàu, trí thức là xấu xa, công nông là cao cả. Sau khi phá nát các
giai cấp cũ trong xã hội, đảng CS đưa một lớp người mới lên tuyệt đối trung
thành với đảng. Nga, Trung Quốc đều làm việc này thì tại Việt Nam, đảng CSVN
cũng phải làm. Đó là cách làm để biến xã hội Việt Nam giống như ở Liên Xô. Làm
thế mới là cách mạng vô sản. Nếu đảng CSVN không đi theo mô hình của Liên Xô,
Trung Quốc thì Liên Xô và Trung Quốc sẽ ngưng viện trợ và không xem miền Bắc là
ở trong "hội" của họ nữa. Mà ông Hồ Chí Minh thì chắc chắn là cũng
tin rằng phải nát cơ cấu xã hội cũ để xây dựng xã hội mới theo học thuyết Mác
Lê, nghĩa là xã hội có mô hình giống như Liên Xô. Không ai ép được ông Hồ làm
việc khó khăn, phức tạp và đẫm máu đó nếu ông Hồ không thực tâm tin tưởng vào
cách mạng vô sản và muốn làm.
Trích: "Có lẽ còn quá sớm để đánh giá HCM. Vấn đề
tùy thuộc ở những gì những người kế vị HCM sẽ thực hiện trong tương lai"
Nói là còn quá sớm để đánh giá Hồ Chí Minh là với những người
soạn chương trình sử cho học sinh thời Việt Nam Cộng Hòa. Vào thời đó, chương
trình sử chỉ học đến Cách Mạng Tháng Tám rồi ngưng. Phần sau đó, sự tranh chấp
Quốc Cộng, không đem vào sử vì là sự việc đang diễn biến nên chưa biết là ai
phải ai trái. Cho học sinh học rồi đưa đến kết luận ai đúng ai sai là quá sớm.
Chủ trương của người dạy là phần tranh chấp đó còn mới, thuộc về chính trị,
chưa được xem là sử. Mà chính trị về tranh chấp giữa các phe hiện tại thì không
đem vào học đường để làm mất đi óc khách quan của học sinh.
Đến bây giờ thì một số việc làm của ông Hồ Chí Minh đã
được xem là lịch sử rồi. Việc áp dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việc Nam rồi phải
thối lui, bỏ các biện pháp mà ông Hồ học được ở Liên Xô rồi đem về Việt Nam áp
dụng cho thấy việc làm của ông Hồ đúng sai ra sao.
Việc nước Đức thống nhất trong hòa bình cũng cho thấy chủ
trương của ông Hồ dùng vũ lực thống nhất làm cho hàng triệu người chết là đường
lối dở.
Việc ngày nay nhiều người muốn có chế độ dân chủ đa đảng
cho thấy chủ trương của ông Hồ là đảng CS dùng bạo lực tiêu diệt các đảng khác
ngày nay người dân không muốn nữa vì nó đã đem lại hậu quả xấu.
Trích: "Năm 1952, Mao Trạch Ðông mời Hồ Chí Minh qua
Bắc Kinh, ép phải cải cách ruộng đất."
Viết sử không phải chỉ là ghi chép sư việc xẩy ra như
"triều đình" bảo sao thì biết thế. Phải đặt câu hỏi, chuyện đó có
thật hay chỉ là cái cớ? Nếu có thì tại sao, chủ đích là gì v.v.? Chẳng hạn, tại
sao Tần Thủy Hòang lại đốt sách, chôn sống học trò... hay cho xây Vạn Lý Trường
Thành? Viết sử mà chỉ nói năm ấy năm ấy Thuỷ Hoàng ra lênh xây VLTT thì e rằng
chưa đủ! (tôi không có ý phê bình riêng tác giả đấy nhé).
Thời chiến tranh đánh Pháp, cũng như sau này ông HCM đi
Tàu như đi chợ, Mao muốn Hồ làm gì gì Hồ đều biết và sẵn sàng làm theo, cần gì
phải đưoơc "mời"?! Mao bảo phải đấu tố phá tan giới trung lưu trí
thức, đó là bọn sẽ tranh dành quyền lực với "đảng", thì Hồ làm liền
mà còn làm mạnh chẳng thua gì Mao. Mao ra chiến dịch "trăm hoa đua nở, trăm
nhà đua tiếng" để thành trừng đám trí thức còn sót lại sau CCRĐ, thì Hồ
cũng làm theo. Mao thanh trừng những người có công lớn với đảng, cỡ Lâm Bưu,
Lưu Thiếu Kỳ... thì Hồ cũng có "vụ án" Xét Lại Chống Đảng - mà VNG là
nạn nhân to đầu nhất... nhưng đau nhất, là Mao muốn chiếm biển Đông, thì Hồ
cũng ra lệnh cho PVĐ, "vị thủ tướng tại chức lâu nhất thế giới và cũng là
thủ tướng có ít quyền nhất thế giới" tho lới chính đương sự, viết công hàm
"hoan hỷ đồng ý" cho Mao vừa lòng...
Chẳng hiểu lý do nào mà Hồ - lớn tuổi hơn Mao, nhiều tuổi
đảng hơn Mao - mà lại "cù lần" (dùng chữ này chi lịch sự, ít
"bầy đàn" hơn chăng?) đến như thế. Nhục quốc thể! (mà dân trí thức
miến Bắc - và cả Nam - vẫn chưa tỉnh ngộ hết thì thật là... buồn... cười!).
Ông Hồ là người Tầu hơn là người Việt
Hỏi: "Còn về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, ông
Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm gì không?"
Trả lời: Ông Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm về vụ thảm sát
Mậu Thân và tất cả các hành ám sát, khủng bố, giết chóc của đảng Cộng Sản Việt
Nam vì các hành vi này nằm trong chính sách dùng bạo lực tiêu diệt các phe khác
để đảng Cộng Sản Việt Nam độc quyền nắm quyền lực. Chính sách này là do ông Hồ
Chí Minh học được ở Liên Xô rồi đem về xây dựng đảng Cộng Sản với chính sách
dùng bạo lực. Vì thế ông Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm về tất cả mọi hậu quả do
đường lối dùng bạo lực của đảng Cộng Sản gây ra. Những người cấp dưới có thể
chịu trách nhiệm từng phần mà họ phụ trách nhưng ông Hồ thì chịu trách nhiệm về
tất cả việc làm của đảng Cộng Sản.
Những việc làm gì của đảng Cộng Sản không thuộc vào đường
lối dùng bạo lực và nền kinh tế tập trung thì ông Hồ không chịu trách nhiệm,
chẳng hạn chính sách "đổi mới" quay trở lại kinh tế thị trường, để
cho tư nhân được kinh doanh, làm giàu. Để cho tư nhân kinh doanh, làm giàu
không nằm trong chính sách của ông Hồ Chí Minh khi ông Hồ xây dựng đảng Cộng
Sản từ lúc đầu.
No comments:
Post a Comment