Richard Botkin - WorldNetDaily
DCVOnline lược dịch
Posted
on April 30, 2013 by editor—22 Comments ↓
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 38, xác định lại sự thật về cuộc
chiến Việt Nam.
Ba mươi tám năm trước đây, hôm nay,
cuộc chiến tranh Việt Nam, đối với người Mỹ, đã chính thức kết thúc trong ô
nhục và không vẻ vang. Đối với hàng triệu người Việt Nam yêu chuộng tự do bị bỏ
lại, kết thúc của “chiến tranh chống Mỹ” đơn giản là sự bắt đầu của một chuỗi
thời gian dài gần như vô tận, đầy tăm tối, và đau khổ.
Những người trong chúng ta đủ tuổi để
biết đến ngày 30 tháng Tư năm 1975, sẽ mãi mãi nhớ những bản tin cuối cùng từ
Sài Gòn bị át đi vì đoàn quân bộ binh và thiết giáp của Cộng sản Bắc Việt, với
hình ảnh của đám đông vô vọng, cố gắng len chân vào các chuyến tản cư của Mỹ,
hình ảnh của tàu hải quân Mỹ ngoài khơi đầy người tị nạn, và trên sàn tàu tràn
ngập máy bay trực thăng đang được đẩy xuống biển sâu – hình ảnh nhũng chiếc
trực thăng chìm dần trong biển cả được so sánh với sự phí lạm lớn lao máu xương
và của cải của người Mỹ. Và kể từ buổi hoàng hôn hôm đó những vết thương chiến
tranh Việt Nam đã không bao giờ hoàn toàn lành lặn hay đã được ghi lại trong
tiềm thức bằng những quan điểm thích đáng.
Đánh giá tình hình, nhiều năm sau đó,
là một chính khách đã nghỉ hưu từ lâu và một phần đã được phục hồi danh dự,
Richard Nixon, người sẽ cho chúng ta một nhận định chỉ có hai dòng, có thể xem
đây là một nhận xét có ý nghĩa nhất, về kinh nghiệm của chúng ta tại Việt Nam khi
ông nói:
“Không có sự kiện nào trong lịch sử nước Mỹ bị hiểu lầm hơn so với chiến tranh Việt Nam. Nó đã được đưa tin sai lạc lúc đó, và giờ đây nó lại được biết đến một cách sai lầm.”
Chúng ta đang mất nhanh dần đi thế hệ
của những người đã chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam. Họ lần lượt qua đời –
và trong nhóm này cũng phải kể đến hàng triệu người Việt Nam tị nạn cộng sản
đến sống trên đất nước này – những nhân chứng lịch sử ngôi thứ nhất, và khả
năng nói lên sự thật, để thảo luận về những thiếu sót nghiêm trọng về lịch sử
hoặc bác bỏ vô số những huyền thoại, một nửa sự thật và những lừa dối trắng
trợn về cuộc chiến tranh đang tràn lan khắp nơi và phần lớn không gặp một thách
đố nào và hiện đang được xem như là những sự thực. Lịch sử loại đó đã được viết
bởi những tác giả, những người chống lại sự tham gia của Mỹ trong chiến tranh,
nhiều người đó đã ngồi trong tháp ngà ở đại học, trốn quân dịch – là những
người hiện nay đang giữ vai trò kiểm soát các ngành lịch sử ở các trường đại
học trên toàn quốc và cũng là những người có ảnh hưởng lớn với các phương tiện
truyền thông .
Ít người có thể tranh cãi rằng thế hệ
của những người đem lại chiến thắng của Mỹ trong Thế chiến II – đã được mô tả
là thế hệ vĩ đại nhất – đã làm được một việc tuyệt vời. Tuy nhiên, điều khó
hiểu được là “Thế hệ Việt Nam” đã không được định nghĩa bởi những chiến sĩ đã
lặng lẽ và vinh dự đứng lên đáp lời sông núi, nhưng lại do những người đàn ông
và đàn bà đã tham gia tích cực trong phong trào phản chiến và, trong khá nhiều
trường hợp, thực sự họ là cái loa cho kẻ thù của chúng ta mà không phải chịu
một hậu quả nào.
Và lịch sử đã nói nói hay biết gì về
những đồng minh Việt Nam của chúng ta? Là người Mỹ, chúng ta có thể đến
Washington, DC, để đọc và chạm tay vào tên của mỗi người trong số 58.187 chiến
binh và tám phụ nữ đã hy sinh tại Việt Nam. Trong khi các con số có thể không
chính xác lắm, bạn đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta đã hy sinh ít nhất gấp
năm lần số tử vong của Mỹ, và Việt Nam khi đó là quốc gia chỉ có một phần mười
dân số so với Hoa Kỳ. Hàng chục ngàn người khác – đa số là sĩ quan quân đội
trước đây – đã không thoát nổi những gì cộng sản mỹ từ hóa gọi là “Trại Cải
tạo”. Những con số này không kể hàng trăm ngàn thường dân vô tội đã chết cũng
như hàng triệu người ly tán không nhà cửa, hầu hết họ bị đầy đoạ dưới bàn tay
hung bạo của cộng sản. (Thí dụ tồi tệ nhất là những cuộc pháo kích vào thường
dân ở tỉnh Quảng Trị trong cuộc tấn công Mùa Hè đỏ lửa năm 1972 và sau đó một
lần nữa trên một phạm vi quy mô, và lớn hơn nhiều trong cuộc tấn công cuối cùng
vào mùa Xuân năm 1975 tại nhiều nơi trên khắp Việt Nam.) Thêm vào đó, có khoảng
250.000 người đã thiệt mạng trên đường vượt biển chạy trốn thiên đường cộng sản
sau năm 1975. Và những con số này chỉ riêng cho dân quân Việt Nam Cộng Hoà
(VNCH). Không kể đến hàng triệu người đã bị Khmer Đỏ sát hại dã man tại
Campuchia, hoặc hàng trăm ngàn người thiểu số vùng cao nguyên của Lào và Thái
Lan. Đám quần chúng vô danh đó không được kể đến cùng những hy sinh to lớn của
họ hầu hết đã, một cách thuận lợi, bị gạt ra ngoài các trang lịch sử.
Chắc chắn là điều vô ích để hâm lại
câu hỏi “Nếu …?” trong lịch sử – Nhưng điều quan trọng là mọi người cần hiểu
rằng đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta đã cận kề với chiến thắng, hoặc ít
nhất là cũng giữ được chân kẻ xâm lược miền Bắc, sau khi cuộc rút quân của Mỹ
đã hoàn tất. Nhiều người Mỹ hẳn còn nhớ cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968
khi đó lực lượng đồng minh đã gây ra thương vong đáng kể cho lực lượng của Hồ
Chí Minh. Trong khi Tết Mậu Thân 68 là một chiến thắng chiến thuật cho khối
đồng minh thì cộng sản đã thành công trong việc phá vỡ ý chí chính trị của
người Mỹ để tiếp tục chiến tranh mở ngỏ. Điều này đã dẫn đến chương trình “Việt
Nam hóa” chiến tranh và sau cùng là cuộc rút lui của Mỹ.
Trong khi chính khách, tướng lĩnh và
quân nhân Việt Nam, trong suốt cuộc chiến và sau đó, hầu như đều được miêu tả
là những con hạm tham nhũng, vô hiệu và không muốn chiến đấu, là một điều kỳ lạ
đã xảy ra trên đường Việt Nam hóa chiến tranh. (Nếu ai đã từng đặt vấn đề về ý
chí chiến đấu của đồng minh Việt của chúng ta thì con số thương vong của họ đã
nói lên tất cả những gì cần để nói về chương trình “Việt Nam hóa” chiến tranh.)
Những điểm này đã được ghi nhận sâu rộng trong giới lãnh đạo quân sự của Mỹ, từ
Tướng Creighton Abrams (Abrams là sĩ quan cao cấp của Mỹ – MACV – trong Việt
Nam 1968–72) xuống cấp cố vấn cơ sở rằng khả năng quân sự của Việt Nam Cộng Hòa
cải thiện rõ rệt trong quá trình rút quân của Mỹ. Không có ai thấy sự cải thiện
đó rõ ràng và lo ngại hơn là những người vẽ kế hoạch chiến tranh tại Hà Nội.
Thử thách lớn nhất của chương trình
Việt Nam hóa là cuộc tổng tấn công Mùa Hè đỏ lửa năm 1972. Với số quân ít nhất
nhiều gấp hai lần số quân chính quy đã có trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân
1968, cùng một số lượng lớn xe bọc sắt, pháo binh và súng phòng không mới nhất
do Xô Viết viện trợ, cuộc tấn công ba mũi nhọn nhằm đánh ngón đòn trực tiếp
cuối cùng. Cuộc tấn công thất bại. Lực lượng Việt Nam Cộng Hòa, sau khi lãnh
những cú sốc ban đầu, phản công mạnh. Trong các mặt trận đẫm máu kẻ xâm lược bị
đánh dội trở lại. Ngoại trừ phần phía bắc lãnh thổ VNCH, gần vùng phi quân sự,
lực lượng Việt Nam Cộng Hòa đã lấy lại tất cả các phần lãnh thổ bị chiếm đóng
trước đó.
Giữa cuộc tấn công Mùa Hè đỏ lửa năm
1972 đến cuối năm 1973, rất nhiều trận chiến đã diễn ra giữa hai phe quốc cộng.
Hiệp định Paris, bảo đảm cho Mỹ sẽ được đón tù binh chiến tranh, và một ngõ
thoát “danh dự”, là một trò hề. Mặc dù sự xảo trá của cộng sản và họ vi phạm
hiệp ước từ ngày đầu, triển vọng cho Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn khá tốt. Vào
cuối năm 1973, chiến thắng của phe cộng sản không phải là một việc đã rồi.
Những cố vấn Mỹ, trong số những người cuối cùng rời khỏi Việt Nam, phần lớn đều
tin tưởng rằng Việt Nam Cộng Hòa có thể một mình đứng vững miễn là họ được viện
trợ đầy đủ.
Buồn thay, lực lượng Việt Nam Cộng
Hòa cuối cùng bị thua không phải trên chiến trường nhưng tại phòng họp của Quốc
hội Mỹ. Vào giữa năm 1973 Quốc hội thông qua luật hạn chế khả năng Tổng thống
của Nixon để đối phó với hành vi vi phạm hiệp ước của phe cộng sản và có thể
tôn trọng các cam kết cá nhân của ông như đã hứa với Tổng Thống Thiệu. Ngoài
ra, viện trợ quân sự và tài chính năm 1974, trực tiếp cho đồng minh của chúng
ta đã bị cắt giảm 32 phần trăm so với mức của năm 1973, và, cũng thế, bị cắt
một lần nữa cho năm tài chính 1975. Sức mua tương đương thực tế (cần nhớ lại
các lệnh cấm vận dầu Ả Rập và lạm phát do giá nhiên liệu tăng cao trong năm
1973 và 1974), làm việc cắt giảm trở nên khắc nghiệt hơn. Phía cộng sản Bắc
Việt không có những hạn chế đó vì Liên Xô và Trung Quốc thực sự đã tăng gấp đôi
viện trợ CSVN trong cùng giai đoạn. Vào cuối năm 1974 và đầu năm 1975, các đơn
vị quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã ra chiến trường với những hạn chế về hậu cần
khiến họ chắc chắn sẽ gặp thất bại. Trong khi chúng ta không thể nói chắc chắn
rằng nếu họ đã được tiếp vận đầy đủ họ sẽ thắng hoặc ít nhất là tăng nâng cao
giá của chiến thắng vượt quá khả năng chi trả của Hà Nội, chúng ta biết chắc chắn rằng
bằng cách cắt đứt viện trợ cho miền Nam Việt Nam, chúng ta đã đảm bảo sự sụp đổ
của VNCH.
Rất ít người ngoài cộng đồng người Mỹ
gốc Việt quan tâm nhớ lại hoàn cảnh đưa đến sự bại trận là một điều chắc chắn.
Có lẽ đó là câu chuyện quan trọng nhất chưa bao giờ được thực sự kể lại về sự
kết thúc của cuộc chiến Việt Nam.
Kết thúc của chiến tranh … cuộc chiến
giành lại sự thật lịch sử
Chúng ta đang mất đi những chiến binh
thuộc “Thế hệ Việt Nam” tại một mấu chốt đáng lo ngại, và cách người Mỹ sẽ nhớ
về cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn bất định. Khi họ “ra đi” thì người ta cũng
mất những cơ hội để nói thật, nói thẳng về sự ngăn cản chủ nghĩa cộng sản và
việc chống đỡ các quân cờ domino ở châu Á. Sự quyết tâm chung của Mỹ và Nam
Việt Nam đã mua được đoạn thời gian quan trọng cho phần còn lại của Châu Á đang
phát triển, và có thể ở những nơi khác, để xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường tự do. Và đây không chỉ là quan điểm riêng của Mỹ, nhưng còn là nhận
xét từ những người như Lý Quang Diệu ở Singapore, khó có thể nói là một tay sai
của Mỹ. Những hạt giống của nỗ lực đó, nằm yên vào cuối tháng Tư năm 1975, đã
đưa đến một vụ mùa bội thu tự do và thịnh vượng, gần 40 năm sau đó.
Ở Việt Nam hôm nay, dù vẫn là một
quốc gia cộng sản, đi dạo xung quanh trung tâm thành phố Sài Gòn người ta dễ
dàng tìm thấy hình ảnh tiệm thịt gà chiên Kentucky hơn là thấy băng rôn Hồ Chí
Minh hô hào công nhân đi làm cách mạng. Chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do
đang rõ ràng tiến lên cao. Đó chính là bằng chứng cho thấy những nỗ lực của
chúng ta để đưng về bên phải của lịch sử.
Cuộc chiến giành lấy con tim và trí
tuệ vẫn chưa kết thúc. Đã quá lâu, sự mô tả những nỗ lực của chúng ta để ngăn
chặn làn sóng đỏ là viển vông, đơn giản, lỗi thời. Những chiến binh Mỹ trong
cuộc chiến Việt Nam đã bị gạt ra ngoài lề xã hội, xem như kẻ bị lừa, bị trì
độn, và là những nạn nhân, chứ không phải là những người danh dự, hào hùng và
thắng trận. Chân dung của người đồng minh Nam Việt của chúng ta đã, đang và
phần lớn vẫn hoàn toàn bị làm cho sai lạc đi, bị ghi chép không đúng cách trong
vô số sách vở và phim ảnh – nghệ thuật và tiểu thuyết được trình bày như thực
tế qua các cuốn phim thái quá như “Deer Hunter”, “Apocalypse Now”, “Platoon” và
ngay cả “Rambo”. Hiển
nhiên, những người chiến sĩ Hoa Kỳ đáp lời sông núi và đồng minh Nam Việt kiên
quyết của chúng ta phải có một vị trí xứng đáng và tốt hơn trong lịch sử.
Richard Botkin là tác giả của “Cưỡi Sấm: Câu chuyện chiến tranh Việt Nam – Danh dự và Chiến thắng”, mà
hiện nay đang được thực hiện thành một phim tài liệu dài đầy đủ. Mục đích của
dự án này là để thay đổi cách thế giới nhớ lại cuộc chiến Việt Nam, đơn giản
bằng cách nói lên sự thật.
Video :
©
2013 DCVOnline
Nguồn:
VIETNAM: THE BATTLE FOR HISTORICAL TRUTH. On 38th anniversary,
seeks to set record straight about war. By Richard Botkin © Copyright
1997–2013. All Rights Reserved. WND.com.
---------------------------------
Vietnam:
The battle for historical truth
Exclusive:
Richard Botkin, on 38th anniversary, seeks to set record straight about war
By
Richard Botkin
Tuesday,
April 30, 2013
Thirty-eight
years ago today, the war in Vietnam, for Americans, came to its inglorious,
ignominious official conclusion. For many millions of freedom-loving Vietnamese
left behind, the end of the “American War” would simply be prelude into a
longer, near-endless period of darkness and suffering.
Those of us old enough to recall the date April 30, 1975, will forever remember those final newscasts from Saigon being overwhelmed by invading North Vietnamese infantry and armor, images of multitudes futilely attempting to join the American exodus, shots of U.S. Navy ships steaming offshore crowded with refugees and flight decks awash in helicopters being pitched into the abyss of the South China Sea – the sinking aircraft a metaphor to many for the tremendous waste of American blood and treasure. And since that dark sunset on that day the wounds that were the Vietnam War would never quite heal or be remembered in proper perspective.
Assessing the situation years later it
was a long-retired and partially publicly restored Richard Nixon who would give
us, arguably, the greatest two-line observation on our experience in Vietnam
when he said:
“No event in American history is more
misunderstood than the Vietnam War.
“It was misreported then, and it is
misremembered now.”
We are rapidly losing that generation
of men who fought the Vietnam War. With their passing – and in this group are
also included the millions of Vietnamese immigrants who came to this country
fleeing communist rule – goes the first-person historical accounting and
ability to tell the truth, to discuss the egregious historical omissions or
rebut the myriad myths, half truths and outright lies regarding the prosecution
of the war so pervasively spread and largely unchallenged, lies that are
currently left to stand as fact. That history has been authored mostly by folks
opposed to America’s involvement in the war, many of whom sat it out in
graduate school, avoiding service – people now in control of history
departments at universities across the nation and who exercise great influence
with the mainstream media.
Few will argue that the generation of
people who engineered America’s victory in World War II – the well-described
Greatest Generation – did a superb job. What is difficult to fathom however is
that the “Vietnam Generation” has been defined not by those men who quietly and
honorably answered their nation’s call to serve, but much more by those men and
women who took an active part in not serving and who, in quite a number
of cases, were, without consequence, actually mouthpieces for our enemies.
And what does history say or recall of
our Vietnamese allies? As Americans we are able to travel to Washington, D.C.,
to read and touch the names of every one of the 58,187 men and eight women who
died serving in Vietnam. While the numbers are a bit imprecise, our South
Vietnamese allies lost at least five times as many soldiers as we did, and this
from a nation with then one-tenth our population. Tens of thousands more –
former military officers mostly – would succumb in what the communists
euphemistically referred to as “re-education camps.” These numbers do not
include the many hundreds of thousands of innocent civilians who died nor the
millions displaced, most of them at the hands of communist aggression. (The
worst examples were the directed, observed artillery shellings of civilians in
Quang Tri Province during the Easter Offensive of 1972 and then again on a far
greater scale during the final invasion in the Spring of 1975 at numerous
places around the country.) Add in also the estimated 250,000 who perished at
sea escaping the post-’75 communist paradise. And these figures are for the
former Republic of Vietnam (RVN) only. They do not include the millions
brutally murdered by the Khmer Rouge in Cambodia or the hundreds of thousands
of Laotian and Thai hill people. These uncounted masses and their tremendous
sacrifices have been mostly written out of history in any favorable way.
It is certainly futile to rehash the
historical “What ifs?” – and yet it is crucial that people understand how close
our Vietnamese allies were to victory, or at least keeping the northern
invaders at bay, after the withdrawal of American troops was complete. Many
Americans remember the Tet Offensive of 1968 during which time allied forces
inflicted significant casualties against Ho Chi Minh’s forces. While Tet of ’68
was a tactical victory for the allies, the communist effort succeeded in
breaking the American political will to continue the war in any sort of
open-ended way. This gave way to “Vietnamization” and ultimately American
withdrawal.
While South Vietnamese politicians,
generals and soldiers were, throughout the war and after, almost universally
portrayed as corrupt, effete and unwilling to fight, a curious thing happened
on the way to Vietnamization. (If anyone ever challenges the will of our
Vietnamese allies, their casualty numbers say all there is to say about
“Vietnamizing” the war.) It has been widely documented by American military
leadership from Gen. Creighton Abrams (Abrams was the senior American officer –
MACV – in Vietnam from 1968-72) on down to the junior adviser levels that RVN
military capabilities improved markedly in the period during the American
drawdown. Nowhere was that improvement more apparent and worrisome than for the
planners in Hanoi.
The greatest test of Vietnamization
would be the communist-launched Easter Offensive of 1972. Mustering at least
twice the conventional forces as they did in Tet of 1968, along with massive
amounts of the latest Soviet-supplied armor, artillery and air-defense weapons,
the three-pronged invasion was meant to deliver the final knockout blow. It did
not. RVN forces, after absorbing the initial shock, rallied strongly. In costly
battles the hated invaders were beaten back. Except for the northern most
portion of the country near the DMZ, RVN forces regained all territory earlier
lost.
Between the launch of the Easter
Offensive in March 1972 and the end of 1973, a great deal of combat took place
between the two opposing countries. The Paris Peace Agreement, which secured
for America the release of POWs and an “honorable” exit, was a sham. In spite
of communist perfidy and treaty violations from day one, prospects for the
struggling Republic of Vietnam were still reasonably good. At the end of 1973 a
communist victory was not a fait accompli. Those American advisers among the
last to depart were largely of the belief that RVN could hold its own as long
as they were amply resupplied.
Sadly, RVN forces would ultimately be
compromised not on the field of battle but in the halls of the U.S. Congress.
In mid-1973 Congress passed laws that restricted President Nixon’s ability to
respond to communist treaty violations and honor the personal commitments he
had made to President Thieu. In addition, direct military and financial aid to
our ally was cut by 32 percent from 1973 levels in 1974 and again for fiscal
year 1975. In real purchasing power (recall that the Arab oil embargo and the
resulting inflation caused fuel prices to soar in 1973 and 1974), the cuts were
even more draconian. The communist north suffered no such constraints as the
Soviets and Chinese actually more than doubled their aid in the same period. In
late 1974 and early 1975, RVN military units went to the field with logistical
constraints that guaranteed their defeat. While we cannot say for certain that
had they been adequately supplied they would have prevailed or at least raised
the cost of victory beyond Hanoi’s willingness to pay, we do know for certain
that by cutting off their aid we assured their demise.
Very few people outside the American
Vietnamese community care to remember the circumstances that made defeat a
certainty. It is perhaps the most important story never really told about the
end of the Vietnam War.
The end of the war … the battle for
history
We are losing the fighting members of
the Vietnam Generation at a disturbing clip, and the way America will remember
the Vietnam War is still up for grabs. As they pass, so go the opportunities to
set the record straight about dulling the spread of communism and propping up
the dominoes in Asia. That combined American and South Vietnamese resolve
purchased critical time for the rest of developing Asia, and likely elsewhere,
to establish and grow free-market economies. And these are not American
observations only, but come from men like Lee Kwan Yew of Singapore, hardly an
American lackey. The seeds of that effort, dormant in late April of 1975, have
produced a bountiful harvest of increasing freedom and prosperity nearly 40
years later.
Even in Vietnam today, still a
communist country, on a walk around downtown Saigon it is easier to spot images
of that Kentucky colonel hawking fried chicken than those of Ho Chi Minh
exhorting workers to revolution. Capitalism and free markets are clearly
ascendant. The evidence has shown our efforts to be on the right side of
history.
The battle for hearts and minds
remains. For so long the portrayal of our effort to halt the spread of
communism has been dismissed as quixotic, simplistic, anachronistic. The
American fighting man from the Vietnam War has been marginalized, played off as
duped, doped and victim, rather than honorable, magnanimous and victorious. The
portrayal of our Vietnamese allies has been and largely remains utterly
corrupted, improperly chronicled in countless books and movies – the art and
the fiction presented as if fact in such fantastic, outrageous films as “Deer
Hunter,” “Apocalypse Now,” “Platoon” and even “Rambo.” Clearly, the American
men who answered the call to arms and our stalwart Vietnamese allies deserve a
better place in history.
Richard Botkin is the author of “Ride the
Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph,” which currently
is being made into a full-length documentary. The program’s intent is to change
the way the world remembers the Vietnam War simply by telling the truth.
No comments:
Post a Comment