Sunday, May 12, 2013 at 9:47am
Thay vì bỏ phiếu chuẩn thuận ba ứng cử viên do Bộ chính
trị đưa ra, Trung ương đã đề cử thêm rất nhiều người. Kết quả, sau 3 vòng bỏ
phiếu, hai ứng cử viên do Bộ chính trị trình đã thất cử.
Chiến thuật làm loãng phiếu bằng cách đưa thêm ứng cử
viên từng được "áp dụng" hồi tháng 1-2009, đánh rớt cơ hội vào Ban bí
thư của Tướng Lê Thế Tiệm. Nhưng không chỉ đơn giản là gạch bỏ Vương Đình Huệ
hay Nguyễn Bá Thanh, lần này, dường như đang có nhiều Trung ương ủy viên muốn
giành lại quyền quyết định (theo điều lệ) của Trung ương thay vì cam lòng biểu
quyết như cơ quan chấp hành của Bộ chính trị.
Trong lịch sử bầu bán của Đảng cộng sản Việt Nam, những
người không được Bộ chính trị hoặc Ban chấp hành trung ương giới thiệu, khi
được các đại biểu hoặc các ủy viên trung ương khác giới thiệu, đều tự giác rút
lui hoặc được yêu cầu rút lui. Không cần chờ tới Đại hội hay Hội nghị trung
ương, một nhân vật đã được Bộ chính trị, được tổng bí thư hoặc có thời chỉ cần
được Lê Đức Thọ "chấm" là chắc chắn vào Trung ương, thậm chí vào
những vị trí cao hơn trong Đảng.
Dưới thời Tổng bí thư Đỗ Mười, có những câu chuyện làm
nhân sự nghe cứ như giai thoại: Trước Đại hội VIII (1996), ông Đỗ Mười cho gọi
một vị phó thủ tướng tới bảo: "Kỳ này tôi nghỉ anh thấy sao?". Vị phó
thủ tướng, vốn là một trí thức lịch lãm, chân thành hỏi lại: "Ai sẽ thay
anh?". Kết quả, ông bị loại ra khỏi danh sách tái cử. Ông Đỗ Mười lại cho
mời một nhà lý luận bảo thủ tới và khi ông vừa dứt lời thì nhà lý luận này liền
đập tay xuống bàn: "Trời ơi, đất nước đang như thế này anh nghỉ làm sao
được". Kết quả, nhà lý luận giữ được ghế ủy viên Bộ chính trị.
Ngày 19-6-1996, tại Hội nghị Trung ương 12 (Hội nghị
trước khi Đại hội VIII bắt đầu), Tổng bí thư Đỗ Mười đã yêu cầu Trung ương đưa
vào danh sách đề cử ủy viên Bộ chính trị hai nhân vật bị Hội nghị Trung ương 11
đưa ra và yêu cầu tái cử thêm hai ủy viên Bộ chính trị quá tuổi, Đoàn Khuê và
Nguyễn Đức Bình. Tuy bị ba uỷ viên trung ương phản ứng, khi ông yêu cầu
"giơ tay biểu quyết", đa số Trung ương phải "chấp hành" ý
kiến của ông. Sau Đỗ Mười, không có tổng bí thư nào có khả năng thô bạo với
Trung ương như thế.
Từ Đại hội VI bắt đầu có chuyện ứng cử viên được đề cử
bởi Ban chấp hành Trung ương bị thất cử ở trong đại hội. Hai nhân vật "tạo
tiền lệ" là Tố Hữu (từng được Lê Duẩn chọn kế vị Tổng bí thư) và Hoàng
Tùng, khi ấy đang là Bí thư trung ương Đảng. Năm 2011, Trung ương cũng từng
đánh rớt một nhân vật được Bộ chính trị tái cơ cấu, Hồ Đức Việt, và Đại hội
cũng đã không bầu Phạm Gia Khiêm một người được đưa vào danh sách chính thức
của Trung ương.
Càng về sau, càng có nhiều ứng cử viên "giới thiệu
thêm" được đưa vào danh sách bầu. Nhưng, cho dù danh sách ứng cử viên có
đông hơn thì xác suất thất cử của các ứng cử viên được Bộ chính trị, Trung ương
trình ra là rất thấp.
Ông Nguyễn Phú Trọng là "người của thiểu số"
ngay khi bắt đầu trở thành Tổng bí thư. Ông ủng hộ "chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất" trong khi chiều 18-1-2011, 61,70% đại biểu của Đại hội XI
đã chọn định nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là "có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ và
phù hợp".
Việc Đại hội không coi "sở hữu công" như là một
đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội lẽ ra phải có giá trị như một hành động
vứt bỏ vòng kim cô cuối cùng của Marx (căn cứ theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản). Ông Trọng có thể đã có một vị trí lịch sử khác nếu ông "phục tùng đa
số" như ông tuyên bố khi nhận chức Tổng bí thư, đẩy mạnh tư nhân hóa khu
vực kinh tế quốc doanh và trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhưng, Nguyễn Phú Trọng đã chứng tỏ một cách hùng
hồn là ông không có khả năng nhận ra thời cuộc cho chính ông, đừng nói là cho
đất nước.
Từ Hội nghị Trung ương Bốn, ông Nguyễn Phú Trọng rõ ràng
đã có nỗ lực để trở nên không tẻ nhạt như người tiền nhiệm của mình. Chỉnh đốn
Đảng và chống tham nhũng là một lựa chọn khá được lòng dân. Nhưng, thay vì thừa
nhận nguyên nhân tham nhũng là từ "lỗi hệ thống" để cải cách chính
trị theo hướng dân chủ hơn; thay vì để cho Quốc hội và tư pháp được thực thi
các quyền hiến định của mình, ông lại sử dụng những công cụ hết sức giáo điều
trong khi trung ương không còn một đa số chỉ biết vâng lời như trước nữa.
Việc các cơ quan trung ương được cắt giảm chỉ còn sáu
ban, kể từ năm 2006, là kết quả của gần hai thập niên cải cách chính trị theo
hướng "Đảng lãnh đạo nhà nước chứ không làm thay nhà nước". Vậy mà
tại Hội nghị Trung ương Năm, ông Trọng lại cho khôi phục Ban Nội chính và Ban
Kinh tế trung ương (một ban chỉ mới được giải tán từ năm 2006).
Sau khi Hội nghị trung ương Sáu đồng ý "cơ cấu"
chức ủy viên Bộ chính trị cho các trưởng ban. Thay vì bầu bổ sung Bộ chính trị
trước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những bước đi "chắc ăn": Bổ
nhiệm Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ làm trưởng ban rồi mới đưa ra Trung
ương bầu bổ sung. Kết quả cả hai đều không đắc cử.
Đây không chỉ là vấn đề tiêu chuẩn cá nhân của ông Huệ hay ông Thanh mà là
"sự nổi loạn" của các ủy viên trung ương. Có lẽ không mấy trung ương ủy viên không từng mơ tới chiếc ghế trong Bộ
chính trị cao sang, và giờ đây không ít người trong số họ không muốn chỉ ngồi
nhìn những kẻ có tiền qua mặt mình, hoặc không muốn chấp nhận nguyên lý "mười năm phấn đấu không bằng một lần cơ
cấu".
Sau thất bại ở Trung ương Bảy, lẽ ra ông Trọng và Bộ
chínhtrị phải nhận ra trong Đảng đã tự diễn biến, các phương thức chính trị cổ
hũ đã không còn thích hợp với thực tiễn hiện nay. Thời kỳ các lãnh tụ áp đặt
niềm tin cá nhân lên toàn đảng, toàn dân tộc đã qua, ngay trong nội bộ của hệ
thống toàn trị cũng cần phải có những chính trị gia thật sự.
Thay vì dừng lại để tìm một hướng đột phá, lấy phương
thức vận động tranh cử để làm "công tác cán bộ trong tình hình mới",
Trung ương Bảy vẫn thông qua chiến lược nhân sự cho Đảng tới 2021 và vẫn dựa
trên nguyên tắc "cơ cấu" và "quy hoạch".
Năm 2001, khi Trưởng ban Tổ chức trung ương Nguyễn Văn An
được cơ cấu làm Chủ tịch Quốc hội, tôi đặt vấn đề "tranh cử trong
đảng" với ông. Ông An lúc ấy cho rằng: "Tranh cử không khéo sẽ thành
tranh giành, cục bộ. Hiện giờ trong Đảng mình chỉ bàn bạc dân chủ rồi phân
công. Đảng phải làm sao đảm bảo có dân chủ mà trong Đảng vẫn giữ được sự thống
nhất" (Thời báo Kinh Tế Sài Gòn 28-6-2001). Giờ đây, ông Nguyễn Văn An
cũng phải nhận ra rằng chính "sự thống nhất" nếu còn thì chỉ để cho
một số cá nhân lũng đoạn.
Nếu như tiến trình tranh cử trong đảng diễn ra công khai,
thì người thực sự tài hơn trong đội ngũ hiện tại sẽ vượt lên; đội ngũ kế cận sẽ
tự nó xuất hiện chứ không phải chỉ những kẻ biết làm vừa lòng cha chú được cơ
cấu.
Đặc biệt, nếu tiến trình tranh cử bắt đầu nhiều tháng
trước các dịp bầu bán, thì không cần "Nghị quyết trung ương Bốn", các
ứng cử viên sẽ giúp Đảng phát hiện tài sản nổi, tài sản chìm, bồ nhí, con
rơi... Giúp dân chúng hiểu được kẻ nào đã ban hành những chính sách hại dân,
hại nước. Chính sự "rạn nứt" do tranh cử sẽ tạo ra một tiền đề mới
cho cải cách chính trị.
Bản chất của độc tài, toàn trị là đối lập với dân chủ.
Tuy nhiên trong điều kiện đảng vẫn cứ một mình cầm quyền và dân chưa biết làm
thế nào để thay đổi tương lai chính trị của mình thì áp dụng một số phương thức
dân chủ trong đảng cũng giảm được cho nước, cho dân phần nào tai họa.
No comments:
Post a Comment