Monday,
May 13, 2013 5:40:14 PM
Hoàng Duy Hùng, nghị
viên thành phố Houston đã về Việt Nam từ 22 Tháng Ba đến 7 Tháng Tư theo lời
mời của thứ trưởng ngoại giao, kiêm chủ tịch Ủy Ban Nhà Nước về Người Việt ở
Nước Ngoài Nguyễn Thanh Sơn.
Những phát biểu
trong và sau cuộc công du của Hoàng Duy Hùng đã gây nhiều tranh cãi.
Trong suốt chuyến công du, ông Hùng đã không hề gặp gỡ nói chuyện với ai trong những người được xem là bất dồng chính kiến với chế độ. Ông được đưa rước “chỉn chu” tới những nơi cần thăm, trong đó có cuộc ghé tư gia của cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
Trong suốt chuyến công du, ông Hùng đã không hề gặp gỡ nói chuyện với ai trong những người được xem là bất dồng chính kiến với chế độ. Ông được đưa rước “chỉn chu” tới những nơi cần thăm, trong đó có cuộc ghé tư gia của cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
Trên
tờ Thanh Niên, ông Hùng nói:
“Tôi
thấy Việt Nam đang phát triển vùn vụt, dầu còn thua Thái Lan, Indonesia,
Malaysia hay Hàn Quốc, nhưng quả thật đang thay da đổi thịt, đang phát triển
thật sự. Sài Gòn nay đã phát triển thành một khu vực đô thị với nhiều nhà chọc
trời, và khu vực đô thị hóa của Sài Gòn bây giờ rộng có lẽ gấp 10 lần trước năm
1975”.
Ông
Hùng thoạt nhìn bề ngoài nên ngợp, không thấu hiểu bản chất của sự thay đổi
này.
Chỉ
trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư công khoảng 286 nghìn tỉ đồng, chiếm
trên 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; giai đoạn 2006-2010 ước đạt trên 739
nghìn tỉ đồng, khoảng trên 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Ngoài
ra đầu tư công, 38 năm qua, đầu tư từ vốn phát triển DOA, vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài FDI và tiền của bà con ở nước ngoài gửi về đã lên tới 10 tỷ
USD/năm. Không thay đổi như thế thì mới là lạ.
Ðầu
tư công đã chứng tỏ kém hiệu quả, dàn trải, lãng phí, thất thoát, làm tăng
nhanh nợ nần của đất nước, mà Vinashin, Vinalines là những điển hình. Nếu như
cuộc xây dựng không bị hệ thống đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, tham nhũng chi
phối, không bị rút ruột công trình, trong xây dựng tới 30-40%, thì Việt Nam còn
phát triển hơn gấp nhiều lần so với hiện tại. Ðây chẳng phải là sự tài giỏi gì
của đảng Cộng Sản Việt Nam (ÐCSVN), mà ngược lại, chính họ đã trục lợi trong
các dự án đầu tư, làm hao kiệt tiềm lực của đất nước.
Dù
thay đổi nhiều so với thời gian cách đấy mấy chục năm (tất nhiên!) nhưng Việt
Nam vẫn là một xã hội nghèo nàn và lạc hậu so với các nước trong khu vực, là
thực tế rõ ràng nhất. Ðất nước bị cai trị bởi một băng đảng độc quyền, với đặc
quyền, đặc lợi, phản bội lại lợi ích của người lao động và chủ quyền an ninh
của đất nước bị Trung Cộng đe dọa.
Cũng
trên tờ Thanh Niên ông Hùng nói về Cồn Dầu:
“Tôi
tiếp xúc với Ðức Cha Châu Ngọc Tri của Ðà Nẵng và Linh Mục Vũ Dần là lãnh đạo
của giáo xứ Cồn Dầu thì tôi được thông tin không có vấn đề đàn áp tôn giáo
trong vụ Cồn Dầu mà chỉ là tranh chấp giá cả đền bù đất đai. Thông tin này rất
quan trọng đối với tôi vì Houston kết nghĩa với Ðà Nẵng mà thành phố kết nghĩa
lại có đàn áp tôn giáo thì còn mặt mũi nào cho Houston.”
Ðây
là một cách nhìn sai lệch. Ðúng là tranh chấp đất đai, nhưng đất đai này của bà
con giáo dân từ lâu đời. Ðặc biệt là nghĩa trang Cồn Dầu, tồn tại 100 năm nay,
có nguy cơ bị xóa số, trong khi nhiều giáo dân có chủ quyền sở hữu. Ðàn áp,
cưỡng chế, thu hồi đất đai, buộc những người giáo dân phải lìa bỏ mảnh đất của
họ ra đi, không phải là đàn áp tôn giáo ư?
Ông
Hùng không gặp những người giáo dân bị đánh đập tàn nhẫn, mà đi gặp lãnh đạo
giáo xứ Cồn Dầu thì làm sao biết được thực tế, chưa nói là lãnh đạo giáo xứ rất
có thể đã bị quốc doanh hóa hoặc bị khống chế.
Về
hòa hợp hòa giải dân tộc, ông Hùng nói:
“Ðúng,
cuộc chiến đã chấm dứt năm 1975, gần 4 thập niên rồi, nhưng lòng người vẫn
không thống nhất. Ðiều cản trở người ta không mở lòng ra với nhau vì ai cũng
cho rằng mình đúng, mình có chính nghĩa, bên kia sai, và bên kia không có chính
nghĩa. Thật ra, cuộc chiến Quốc-Cộng là một tai nạn đau thương trên mảnh đất
hình chữ S của Việt Nam và đã đến lúc chúng ta cần tìm một giải pháp để khép
lại chương sử đau thương đó.”
Vẫn
lời ông Hùng: “Tôi nghĩ rằng đã đến lúc cả hai nên nói chuyện để tìm ra một
giải pháp dung hòa, và phe chống đối không nên chỉ khai thác tối đa mặt trái mà
không chịu công nhận những giá trị tích cực khác của đảng cầm quyền. Nếu phe
chống đối cứ tiếp tục con đường đó thì tôi nghĩ rằng nhà cầm quyền sẽ không bao
giờ chịu nhường bước đối thoại vì họ đang ở thế mạnh nên nhu cầu để đối thoại
với người bất đồng không có là bao. Phe chống đối nói rằng đã thế thì họ cứ
chống và tìm cách lật đổ”.
Tiếp
tục: “Câu hỏi được đặt ra đó là có lật đổ nổi không? Cả Việt Nam Cộng Hòa được
Mỹ hỗ trợ đàng sau cũng không làm nổi, huống chi tình thế thay đổi và Mỹ lại hỗ
trợ cho nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay! Giai đoạn 1975-1993 là thời gian Việt
Nam chưa phát triển và còn bị bao vây tứ bề, dân ở trong nước có gốc gác Việt
Nam Cộng Hòa còn chống đối dữ dội, năm 1989 Ðông Âu và năm 1991 Liên Xô sụp đổ,
ấy thế chế độ Việt Nam vẫn vững mạnh, thì bây giờ phe chống đối lấy gì mà lật
đổ? Lòng dân ư? Tôi tiếp xúc và tôi thấy đa phần dân chúng ở Việt Nam chỉ muốn
yên ổn phát triển làm ăn và họ muốn ôn hòa đối thoại để cải tiến những mặt trái
của chính trị và xã hội”.
Khép
lại đau thương, không ai khác, thuộc về chế độ Cộng Sản. Họ vẫn mừng vui chiến
thắng “giải phóng” miền Nam ầm ĩ với cờ hoa bạt ngàn những dịp 30 Tháng Tư đó
sao?
Giữa
người Việt ba miền không hề có khoảng cách, không cần bất cứ một sự hòa giải
nào cả, người ta vẫn sống với nhau bình thường.
Người
Việt ở nước ngoài cũng vậy, không hề có mâu thuẫn gì với đồng bào trong nước.
Hàng trăm ngàn người hàng năm vẫn về thăm quê hương. Giữa họ và người trong
nước không cần hòa giải. Họ chỉ đối kháng với ý thức hệ và cách suy nghĩ giáo
điều, bảo thủ của nhà nước Cộng Sản. Nếu có dân chủ, tự do, người ta sẽ sống
hòa hợp, dù vẫn tồn tại bất đống chính kiến. Không bao giờ hết bất đồng chính
kiến trong một xã hội, nhưng phải có môi trường tự do, dân chủ để thể hiện.
Còn
đối thoại? Sự “đối thoại” của những người Cộng Sản chỉ nhằm thực thi chính sách
tuyên truyền, có lợi cho chế độ. Ðã 38 năm rồi mà họ vẫn bên ta, bên “ngụy”,
nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, “thế lực thù địch” nên mới tạo ra chia rẽ, hận thù.
Những
người Cộng Sản không thèm nghe ai khi thấy phương hại đến độc quyền lãnh đạo
của họ, cho dù những lời khuyên đó có mang lại lợi ích cho đất nước đến đâu.
Rất nhiều trí thức trong nước đã có ý kiến, can ngăn, ví dụ dự án bauxite Tây
Nguyên, nhưng họ đã bỏ ngoài tai, vẫn tiến hành và bây giờ hậu quả là bao nhiêu
bê bối, chẳng biết bao giờ có lãi. Trong khi đó người Trung Quốc “nằm vùng”
trên mảnh đất chiến lược.
Quan
điểm phải hợp tác với Cộng Sản để thuyết phục, làm thay đổi cộng sản, tìm cách
nói cho Cộng Sản nghe, đã chứng tỏ tính chất xuẩn ngốc của nó qua hậu quả việc
làm của rất nhiều người từ hàng chục năm nay. Chưa có vị “quân sư” nào làm Cộng
Sản thay đổi được bản chất, ngược lại, họ thường bị phản phé, ngược đãi và chịu
chung một bi kịch giống nhau.
Từ
Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường thời kháng chiến chống Pháp, tới các trí thức miền
Nam như Nguyễn Hộ, tới Lê Hiếu Ðằng, Huỳnh Nhật Tấn… đã cho thấy sự phản bội,
lật lọng của chế độ Cộng Sản hôm nay.
Những
Việt kiều về Việt Nam đầu tư như Trịnh Vĩnh Bình (Hòa Lan), Trần Trường (Mỹ)…
đã vỡ mộng. Ông Nguyễn Cao Kỳ ước vọng sau khi chết được chôn ở quê nhà Sơn Tây
cũng đã bị bác bỏ.
Tiến
Sĩ Nguyễn Ðăng Hưng, Việt kiều Bỉ đã viết:
“Tôi
là người luôn lạc quan và luôn tìm cách vận động Việt kiều về xây dựng đất
nước. Tuy nhiên, sau 10 năm đúc kết Nghị quyết 36 về công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài có thể thấy việc thu hút Việt kiều về xây dựng đất nước
chỉ còn là một khẩu hiệu thiếu thực chất, thiếu nội dung…”
Ông
Hùng cũng nói về mô hình ÐCSVN tách ra làm hai đảng trong một thể chế phân
quyền tam lập, như là một liệu pháp dân chủ.
Sống
tại Mỹ mà ông Hùng chẳng hiểu gì về việc lưỡng đảng của chế độ dân chủ của Mỹ.
Có rất nhiều đảng phái hoạt động trong xã hội Mỹ, song song với các tổ chức phi
chính phủ. Quá trình dân chủ của xã hội dân sự Mỹ đã sàng lọc và lựa chọn qua
bầu cử tự do hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ, những đại diện có lá phiếu cao nhất
vào Quốc Hội.
Cũng
như ở Ba Lan, sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, có tới hơn một ngàn đảng phái
chính trị đăng ký hoạt động. Nhưng khi bầu cử, mỗi đảng phải tuân thủ thể lệ
bầu cử. Tại các khu vực bỏ phiếu, người của mỗi đảng phải có ít nhất năm ngàn
phiếu cử tri ủng hộ thì mới được ghi danh. Qua hơn hai thập niên dân chủ, sự
chọn lựa của cử tri đã loại dần các đảng phái nhỏ, không có chương trình hành
động. Rốt cuộc trong hơn 80 đảng phái còn hoạt động, chỉ ba đến năm đảng được
bầu vào Quốc Hội.
Tách
ra hai đảng mà thực chất vẫn duy trì một bộ máy cầm quyền độc tài, chuyên chế
thì chẳng phải là một xã hội dân chủ, dù được trang bị bằng đủ các ban bệ. Như
nước Nga của Putin. Không có bầu cử tự do và báo chí tự do, mọi cấu trúc dân
chủ đều là giả hiệu.
Tóm
lại, cái nhìn của ông Hùng có thể có thiện chí nhưng phiến diện, nếu không nói
là ngây thơ.
Chỉ
khi nào có một phong trào tranh đấu quần chúng trong nước đủ lớn mạnh, khi đó
mới có thể nói đến đối thoại. Cộng Sản chỉ nhân nhượng và đối thoại khi bị áp
lực dồn vào chân tường.
Tác giả nhận xét " cái nhìn của ông Hùng có thể có thiện chí nhưng phiến diện, nếu không nói là ngây thơ" nhưng với cái nhìn của tác giả thì hoàn toàn mới là phiến diện ngây thơ tác giả chỉ cố nhìn vào những mặt sấu của xã hội không chịu hiểu những điểm tích cực lại kêu việt kiều hàng năm đổ hang chục tỉ usd về nước mà còn kêu chính sach của nhà nước hô hào việt kiều về nước là hình thức thử hỏi nếu là hình thức thì sao hàng năm số tiền này vẫn tăng và số việt kiều về nước sinh sông cũng tăng mạnh rồi có những việt kiêu sau khi về nước đã lập công ty và trở thành những doanh nhân thành đạt trong nước
ReplyDelete