Đào Tiến Thi
By ttxviahebs on 19/05/2013
Báo Hà Nội Mới online ngày thứ
năm, 16-5-2013, có bài Không thể “khoác áo” dân chủ để kích động, gây rối của một tác giả lấy tên là Trí
Dũng, đã tấn công trực tiếp vào nhóm Kiến ghị 72 và nhóm Công dân tự do. Trong
bài này xin chỉ bàn về nhóm Kiến nghị 72.
1. Một cách viết non yếu
Không kể cách hành văn lòng
thòng, tối nghĩa, ghép nhặt các khẩu hiệu thì bài báo đã phạm 3 lỗi đáng kể
dưới đây:
1.1. Ngay trong phần đầu của
bài, tác giả đã đưa ra một lô tội của các nhân sỹ, trí thức mà rồi bỏ
lửng, không phân tích, không chứng minh. Đó là một lối làm văn cẩu thả, một lối
phát ngôn vô trách nhiệm. Chúng tôi sẽ trở lại ở phần 3 của bài.
1.2. Lẽ ra chữ “dân chủ” của
tên bài nói trên phải để trong “nháy nháy” (để chỉ dân chủ giả hiệu, dân chủ
khoác áo) thì tác giả lại đặt chữ “khoác áo” trong dấu nháy cho nên người đọc
thấy hai chữ “khoác áo” trở nên buồn cười:
– Hoặc là nó trở nên vô nghĩa
(vì dùng sai dụng ý đích thực của người viết);
– Hoặc cứ theo đúng chức năng
của dấu nháy trong trường hợp này thì phải hiểu từ ngữ theo một nghĩa khác
(thông thường là nghĩa ngược lại). Ví dụ, chữ “phấn đấu” sau đây: “Đời sống
nhân dân khá hơn xưa, cán bộ ta ăn ở cũng khá hơn xưa, đi công tác có xe đạp,
có ô tô nữa. Nhưng có một số người không nhớ lúc hàn vi, lại để cho chủ nghĩa
cá nhân nảy nở. Đã có xe rồi lại “phấn đấu” để có xe đẹp hơn, chiếm mất phần
của người khác. Đã có nhà ở rồi, lại “phấn đấu” theo kiểu như thế để có nhà đẹp
hơn” (Hồ Chí Minh[1]). Rõ ràng khi đặt trong dấu nháy, chữ “phấn đấu” đâu còn
nghĩa là “phấn đấu” nữa, mà đã mang nghĩa “tham lam”, “vơ vét”.
1.3. Cũng trong phần đầu của
bài, tác giả xác định đối tượng mình đả kích là “các thế lực thù địch”, tức là
một thế lực vô hình, không tên tuổi, không hình dong, nhưng cuối bài lại chỉ
đích danh là nhóm Kiến nghị 72 (72 nhân sỹ, trí thức khởi xướng và ký đợt 1 vào
Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp) và nhóm thảo ra Tuyên bố công dân tự do. Tác giả
viết: “Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng “Tuyên bố của công dân tự
do” hay “nhóm kiến nghị 72” và những kẻ đang rêu rao dân chủ, nhân quyền thực
chất là họ đang đánh tráo khái niệm dân chủ và ngụy tạo dân chủ”.
Xác định đối tượng một cách
tiền hậu bất nhất như thế có phải vì non kém trong nghiệp viết lách? Có thể.
Nhưng cũng có thể do một đầu óc đã mụ mẫm vì định kiến, cứ ai khác mình tức là
“thế lực thù địch” cả. Ban đầu, tác giả hãy còn tỉnh, nghĩ thế nhưng biết
tránh, không gọi tên cụ thể; về sau quên, nói toẹt ra. Khi đã nói toẹt ra thì
sự lố bịch cũng hết đường che giấu. Bởi vì “thế lực thù địch” lúc này là những
con người cụ thể, rất cụ thể bằng xương bằng thịt, đang sống hiền lành trong
chế độ này, chưa bao giờ làm “địch” cả. Trong số 72 nhân sỹ, trí thức nói trên,
nhiều người từng là quan chức nhà nước như TS. Nguyễn Đình Lộc, nguyên bộ
trưởng Bộ Tư pháp; GS. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường; Ông Vũ Đức Khiển, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội; GS. Phạm
Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, Ông Nguyễn Xuân
Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên – Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa
Thiên – Huế,… Có người từng nổi tiếng trên lĩnh vực hoạt động của mình như GS.
Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học; GS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của
Quốc hội. Có nhiều người là những nhà khoa học, nhà văn có uy tín trong giới và
trong độc giả như GS. Nguyễn Huệ Chi, GS. Hoàng Tụy, GS. Trần Đình Sử, nhà văn
Nguyên Ngọc, nhà thơ Việt Phương, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên (hiện đang là chủ tịch Hội Nhà văn
Hà Nội),… Trong số 72 nhân sỹ, trí thức còn có nhiều vị từng hoạt động trong
phong trào sinh viên yêu nước trước 1975, từng bị tù đày trong chế độ cũ như
các ông Cao Lập, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng, Lê Công Giàu, Hồ ngọc Nhuận,
Huỳnh Kim Báu,… Loại đứng “cuối bảng” như tôi – Đào Tiến Thi, như Nguyễn Xuân
Diện,… thì cũng là những công chức lương thiện, vốn chỉ biết “côi cút làm ăn,
toan lo nghèo khó”, chưa hề biết mặt mũi “thế lực thù địch” nó thế nào, dù cũng
đã nhiều lần yêu cầu các anh an ninh chỉ ra cho vài tên “thù địch” để tránh
nhưng chính họ cũng chịu.
Trong số 72 nhân sỹ, trí thức
nói trên, cũng chưa có ai “tự cho mình là “nhà dân chủ, đấu tranh đòi nhân
quyền” như ông Trí Dũng gán ghép. Lại càng chả có ai dại gì “đánh bóng tên
tuổi” (nhiều người trước đó đã có tên tuổi rồi) bằng cách nói trái “lề Đảng” để
bị treo lơ lửng cái án tù hoặc chí ít cũng bị quấy nhiễu, gây khó dễ đủ điều
trong cuộc sống (cái này thì ai cũng từng bị). Trong cảnh bát nháo này, thiếu
gì những cách đánh bóng tên tuổi an toàn nếu muốn, tội gì “đánh bóng” bằng cách
nguy hiểm này.
2. Một người nhận thức mù mờ về dân chủ lại đi lên lớp về
dân chủ
Tác giả đặt vấn đề: “Nói tới dân
chủ, trước hết cần đề cập đến những khái niệm cơ bản nhất. Dân chủ là gì? Hầu
hết các nghiên cứu đều cho rằng người Hy Lạp cổ là chủ nhân sáng tạo nền dân
chủ và các thiết chế dân chủ”.
Như vậy, khái niệm dân chủ được
ông Trí Dũng xác định là “nền dân chủ và các thiết chế dân chủ”, tức thể chế
dân chủ, chính thể dân chủ. Thế nhưng sau đó ông lại viết: “Tựu trung, xét
về bản chất, dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng từng cá nhân con
người như một thành viên bình đẳng trong xã hội, được lắng nghe và được thể
hiện quan điểm, là quyền được tham gia các hoạt động của đời sống chính trị, xã
hội của đất nước, tham gia quản lý xã hội và xây dựng các quyết sách thông qua
các cơ chế khác nhau trên cơ sở đồng thuận xã hội”.
Trước hết, tác giả lẫn lộn “chính
thể dân chủ” với “tính dân chủ”, “sự dân chủ”. Chính thể dân chủ là cả một
thiết chế nhà nước do nhân dân làm chủ (sẽ trình bày bên dưới), còn tính dân
chủ, sự dân chủ chỉ ở trong phạm vi một vấn đề, một sự việc. Ví dụ nói: vấn đề
này đã được bàn bạc một cách dân chủ.
Thứ hai, tác giả lẫn lộn giữa
“chính thể dân chủ” và “quyền công dân”, “quyền con người”. Quyền công dân là
những quyền được ghi trong hiến pháp của một nước; và như vậy, quyền công dân
không nói lên được chính thể ấy có phải là chính thể dân chủ hay không. Chưa
kể, quyền công dân nếu chỉ có trên giấy thì càng không thể coi dân nước đó đã
có quyền công dân. Trong một chính thể dân chủ, cũng chưa chắc quyền con người
được bảo đảm. Ví dụ trong một số chính thể dân chủ thời cổ đại, người nô lệ gần
như chẳng có quyền gì, nhưng nó vẫn là chính thể dân chủ.
Bây giờ xin nói qua về chính
thể dân chủ. Montesquieu định nghĩa về ba loại chính thể như sau: “Chính thể dân
chủ là chính thể mà dân chúng hay một bộ phận dân chúng có quyền lực tối
cao. Chính thể quân chủ thì chỉ có một người cai trị, nhưng cai trị bằng
luật pháp và được thiết lập hẳn hoi. Trong chính thể chuyên chế thì trái
lại, chỉ có một người cai trị, mà không luật lệ gì hết, chỉ theo ý chí và sở
thích của hắn ta mà thôi”[2].
Trong chính thể dân chủ, dân
chúng nắm quyền lực tối cao. Thế nào là nắm quyền lực tối
cao? Nói đơn giản như sau: Người dân bầu ra (bầu trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua nghị viện) chính phủ của mình để chính phủ quản lý xã hội và bảo vệ quyền
lợi chung của quốc gia. Nói cách khác, quyền lực của nhân dân được thực thi
thông qua hình thức uỷ quyền, hay nói một cách dễ hiểu hơn là thuê
mướn. Tôi – nhân dân góp tiền (thông qua việc đóng thuế) thuê anh
– chính phủ, anh phải có trách nhiệm làm những việc tôi giao; nếu anh làm không
ra gì tôi không thuê nữa, tức là tôi phế truất anh, và tôi thuê (bầu)
anh khác.
Vì thế, Montesquieu viết:
“Trong chính thể dân chủ, theo một cách nhìn nào đó, có thể coi dân chúng như
vua (…) Dân là “vua”, bởi họ được thể hiện ý chí của mình bằng các cuộc đầu
phiếu (…) Dân chúng có quyền lực tối cao phải tự mình làm lấy những điều có thể
làm tốt được, còn những điều mà dân không thể làm tốt được thì phải giao cho
các vị bộ trưởng thừa hành. Các vị bộ trưởng nếu không do dân cử thì không phải
là của dân. Châm ngôn cơ bản của chính thể dân chủ là: dân bầu ra bộ trưởng,
tức là bầu ra người quan chấp chính để cai trị mình”[3].
Không phải đến xã hội tư bản
mới có chính thể dân chủ. Một số chính thể dân chủ đã từng tồn tại ở Atthen (Hy
Lạp cổ đại) và Roma (La Mã cổ đại). Cho nên Montesquieu đã mô tả các thể chế
dân chủ này trong Bàn về tinh thần pháp luật (1748), trước cả khi nền
dân chủ Pháp được thiết lập. Tất nhiên, các nền dân chủ tư sản thời cận đại, và
đặc biệt là thời nay, thì nó hoàn thiện hơn rất nhiều, nhưng vẫn không ra ngoài
nguyên tắc trên.
Không biết tôi diễn giải như
thế đã giúp ông Trí Dũng hiểu thế nào là thể chế dân chủ hay chưa? Vì xem ra
ông giải thích dân chủ không những tù mù, rối rắm, thể hiện một nhận thức lơ mơ
mà điều đặc biệt sai lầm hơn là ông hiểu dân chủ như một thứ bổng lộc của kẻ
cầm quyền ban phát cho dân chúng, theo một cơ chế “xin – cho”, chứ không phải
đó là phương thức của dân chúng uỷ quyền (thuê mướn). Ông viết:
“Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều quyết sách bảo đảm thực thi các giá trị
dân chủ…”. Dân chủ sao lại có thể thực thi bằng “quyết sách” của nhà cầm quyền
được? Dân chủ chỉ có thể thực thi bằng những điều quy định trong hiến pháp và
được cụ thể hoá bằng các luật phù hợp với hiến pháp. Nhà cầm quyền nếu tự ý ra
quyết sách thì bao giờ cũng để bảo vệ lợi ích của nhà cầm quyền. Nhưng trong
thể chế dân chủ, nhà cầm quyền dù làm gì cũng phải thực thi theo hiến pháp và
luật, tức là làm theo ý chí của nhân dân, chứ không phải ý chí của nhà cầm
quyền. Nếu nhà cầm quyền không làm theo ý chí của nhân dân thì nhân dân lôi
cổ họ xuống, thậm chí tống cổ họ vào tù (các quan toà chỉ thực thi theo luật,
bất kể kẻ phạm tội mang chức gì). Những người từng sống nhiều năm ở các chế độ
dân chủ đều phát biểu rằng nhà cầm quyền ở những nước này rất sợ nhân dân. Bởi
vì nhân dân sẵn sàng phế truất họ thông qua lá phiếu bầu và thông qua công
luận. Ngược lại, họ cũng sẽ được nhân dân kính yêu nếu làm tốt phận sự.
Khi hiểu dân chủ như tôi đã
trình bày thì dù là dân chủ tư sản hay “dân chủ Hồ Chí Minh” (theo cách gọi của
ông Trí Dũng) thì nguyên tắc đều như nhau. Nếu có những biến thể khác nhau thì
chúng cũng không hề xung đột nhau đến mức thành ra đối lập giữa “dân chủ Hồ Chí
Minh” (dân chủ XHCN) với dân chủ tư sản. Cho nên, nếu chính thể hiện thời của
ta là chính thể dân chủ thì ta luôn luôn có nhu cầu tham khảo các chính thể
dân chủ khác để bổ sung cho chính thể dân chủ của mình ngày càng dân chủ
hơn, chứ không bao giờ đi phỉ báng các chính thể dân chủ khác như ông
Trí Dũng cũng như nhiều đồng nghiệp của ông đã và đang làm. Sinh thời, Cụ Hồ
cũng không bao giờ làm những việc như thế.
3. Một thái độ vu cáo, phỉ báng các nhân sỹ, trí thức
Ngay phần đầu, ông Trí Dũng
viết (được đưa lên thành sapô, in đậm): “Thời
gian gần đây, lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến của toàn dân vào Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhiều nhóm người tự xưng danh những nhà hoạt động
dân chủ, nhân quyền đã đưa ra những luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật, đòi
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; thiết lập chế độ tam quyền phân lập, phi
chính trị hóa lực lượng vũ trang, xóa bỏ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai…”
Đó là một lô “tội lỗi” của nhóm
Kiến nghị 72 nhưng không hề được tác giả phân tích, không hề được tác giả chứng
minh qua nội dung bản Kiến nghị hay cách đưa Kiến nghị xem nó “phản động” ở chỗ nào. Ông
không biết cách viết một bài văn nghị luận (đã học từ cấp 2) hay do không thể
tìm được cứ liệu nào để sáng tỏ các luận điểm này? Nếu bài trước do “sơ xuất”
thì đề nghị ông viết tiếp một hay nhiều bài để chứng minh được các vấn đề sau
đây:
– Nhóm Kiến nghị 72 đã “lợi
dụng dân chủ” như thế nào?
– Nhóm Kiến nghị 72 đã “đưa ra
những luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật” như thế nào?
– Đa nguyên chính trị, đa đảng,
tam quyền phân lập xấu xa, có hại ở chỗ nào?
– Phi chính trị hóa lực lượng
vũ trang (ông Trí Dũng dẫn ý không đúng; đúng ra là trung lập hoá lực lượng vũ
trang, tức lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không
phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào) thì có hại ở chỗ nào?
– Xóa bỏ chế độ “sở hữu toàn
dân” về đất đai thì có hại như thế nào? Ông giải thích thế nào nạn tham nhũng
đất đai (còn gọi là cướp đất) vô phương cứu chữa hiện nay? Có phải đó chính là
do chế độ “sở hữu toàn dân” gây ra?
Sau khi quy chụp vô căn cứ nhóm
kiến nghị 72 như trên, ông Trí Dũng còn kết tội hậu quả do “những nhà dân chủ”
(những nhân sỹ, trí thức khởi xướng Kiến nghị 72) gây ra, coi họ là những người
gây “bất ổn xã hội” và theo ông, từ bất ổn xã hội sẽ “gây ra những hệ lụy đau
đớn thế nào với một quốc gia, một dân tộc”. Cái kiểu hù doạ lố bịch đó không
những không doạ được ai mà còn gây mối bất hoà giữa Đảng và trí thức, giữa công
luận “lề Đảng” (hệ thống báo chí chính thống) và công luận “lề dân” (mạng
truyền thông xã hội).
Chưa bàn nội dung đúng sai ở
đây mà trước hết bản Kiến nghị 72 là một bản kiến nghị đầy thiện chí, nó chỉ có
mong muốn Đảng và Nhà nước nhận thức đúng những căn bệnh hiện nay, dũng cảm đổi
mới đất nước và đổi mới chính mình, đưa dân tộc Việt Nam và cả Đảng Cộng sản
Việt Nam thoát khỏi cơn khủng hoảng, đổ vỡ để tiến kịp thời đại. Bản Kiến nghị
được 15 vị trí thức (nhiều vị đồng thời là cựu quan chức) có uy tín đem đến địa
điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân tại 37 Hùng Vương, Hà Nội và trao
tận tay cho ông Lê Minh Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó
Ban biên tập Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, theo đúng tinh thần của nghị quyết về
sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội. Cho đến nay, bản Kiến nghị đã được 14.558 người
ký tên ủng hộ, có lẽ đó là một con số ký kiến nghị lớn nhất trong các kiến nghị
ở Việt Nam từ trước đến nay. Ngoài 72 nhân sỹ trí thức ký đợt 1, còn hàng trăm
trí thức có tên tuổi khác, trong đó có nhiều trí thức Việt kiều. Nếu phỉ báng
14.558 người nói trên thì thực là coi trời bằng vung. Nói cụ thể là nó tạo ra
sự đối lập giữa Đảng với trí thức, giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữa Đảng,
Nhà nước với kiều bào. Và như vậy nó chống lại khối đại đoàn kết dân tộc, trong
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các
đoàn thể, các nhân sỹ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu
dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ”[4].
Ngược với những “tiên đoán” của
ông Trí Dũng, cho rằng các ý kiến về dân chủ trong Kiến nghị 72 sẽ gây “bất ổn
xã hội”, những người có hiểu biết, kể cả những người có lương tri trong bộ máy
Đảng và Nhà nước đều thấy rằng nguy cơ bất ổn, nguy cơ sụp đổ chế độ, nguy cơ
mất nước không phải do dân chủ, mà là do sự đóng kín dân chủ, do sự cự tuyệt
dân chủ của “một bộ phận không nhỏ” (theo cách nói của ông Tổng bí thư Đảng)
thoái hoá, biến chất. Họ lo sợ bị mất những quyền lợi bất chính của riêng mình
mà cố kìm hãm dân chủ. Nếu nhân dân có bị “kích động”, có “gây rối” thì chính
là do chính sách bóp nghẹt dân chủ, dân sinh, chính sách đàn áp những người
muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc trước các hành động xâm lược của
Trung Cộng mà thôi.
Để kết thúc bài này, cũng xin
thưa với ông Trí Dũng và những người đồng quan điểm với ông, rằng nhóm Kiến
nghị 72 chẳng thể nào làm được cái việc “kích động”, “gây rối”. Bởi trong tay
họ không một tấc sắt, không một lực lượng, không có cả một tổ chức. Đến phương
tiện ngôn luận, họ cũng chỉ có các blog cá nhân và mạng facebook (cũng luôn
luôn bị bao vây, ngăn chặn). Thật là châu chấu đá xe so với cả một nhà nước có
một rừng quân đội và cảnh sát, có một rừng diễn đàn với 700 tờ báo và đài phát
thanh, truyền hình.
Cũng cần phải nói thêm: báo Hà
Nội Mới đã làm một việc không đẹp thuộc văn hoá – đạo đức của nghề báo: đăng
bài phê phán mà lại không đăng bài bị phê phán. Tức là không đăng bản Kiến
nghị 72 và Tuyên bố công dân tự do. Tất nhiên có tiền lệ các báo
trong hệ thống báo chí nhà nước thường như vậy, nhưng đó là một tiền lệ xấu. Ở
một số trường hợp khác họ có thể có lý do, rằng tôi không chỉ đích danh ai mà
chỉ nói “thế lực thù địch” chung chung. Nhưng ở một bài báo đã chỉ đích danh
đối tượng mà họ kết tội như bài báo của ông Trí Dũng thì lẽ ra báo Hà Nội Mới
phải đăng kèm toàn văn Kiến nghị 72 và Tuyên bố công dân tự do
mới phải.
____________________
[1] Hồ Chí Minh tuyển tập,
tập 2, NXB Sự thật, 1980, tr.491, bài Ý kiến về việc làm và xuất bản loại
sách người tốt, việc tốt, 1958.
[2] Bàn về tinh thần pháp
luật, NXB Lý luận chính trị, 2006, trang 46.
[3] Sđd, trang 47, 48.
[4] Sđd, trang 278, bài Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công, 1962
No comments:
Post a Comment