Thái Văn
Cầu
10-5-2013
Tại
Hội thảo quốc tế về tranh chấp Biển Đông ở New York với sự tham gia của các học
giả, quan chức từ Việt Nam, Trung Quốc, Singapore, Mỹ, giữa tháng Ba vừa qua,
quan chức Trung Quốc trích dẫn Công hàm Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Cộng hoà Nhân dân Trung hoa (CHNDTH) Chu
Ân Lai năm 1958 như bằng chứng Việt Nam công nhận chủ quyền Hoàng Sa – Trường
Sa thuộc Trung Quốc [1].
Trong
hơn một thập niên nay, học giả người gốc Hoa và quan chức Trung Quốc nhiều lần
đề cập đến Công hàm 1958 với cùng nhận định [2].
Qua
nghiên cứu phổ biến năm 1996, chuyên gia luật quốc tế người Pháp phủ nhận giá
trị pháp lý của Công hàm 1958 trên cơ sở hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, kể
từ Hội nghị Geneva mùa Hè năm 1954 cho đến cuối tháng tư năm 1975, hoàn toàn
thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), chính quyền ở phía Nam vĩ
tuyến 17. Một số chuyên gia luật quốc tế khác đưa ý kiến bác bỏ nguyên tắc ngăn
chặn (estoppel) có thể được viện dẫn từ Công hàm 1958 [3].
Mục
đích của bài viết này là để trả lời câu hỏi, có chăng hai Nhà nước (States)
Việt Nam hiện hữu trong 20 năm trước khi khai sinh Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), và để xét đến một số vấn đề nóng bỏng liên hệ đến
chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
1.
HAI VIỆT NAM?
Hội
nghị Geneva 1954, với sự tham dự của Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Anh, Mỹ, và ba
nước Đông Dương, đưa đến việc ký kết Hiệp định phục hồi hoà bình trên bán đảo
Đông Dương. Điều 7 trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị nói, hai miền Bắc và
Nam Việt Nam tổ chức bầu cử tự do, dưới sự giám sát của quốc tế, vào tháng 7
năm 1956, để thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử năm 1956 không xảy ra như quy
định [4].
Tháng
Một năm 1957, Liên Xô đề nghị Liên Hiệp Quốc thu nhận VNDCCH và VNCH làm thành
viên.
Liên
Xô lập luận, “ở Việt Nam hai Nhà nước riêng biệt hiện hữu, khác biệt
trong cấu trúc chính trị và kinh tế. Do đó, thống nhất qua bầu cử trở thành xa
vời đối với Việt Nam như trong trường hợp nước Triều Tiên hay nước Đức”
[5].
Không
muốn công nhận VNCH, VNDCCH phản đối đề nghị của Liên Xô [6].
Khi
Liên Hiệp Quốc tuyên bố VNCH hội đủ điều kiện gia nhập và đa số thành viên
trong Đại hội đồng biểu quyết thu nhận VNCH vào LHQ, Liên Xô dùng quyền phủ
quyết trong Hội đồng Bảo an LHQ để ngăn chặn [7].
Tháng
9 năm 1958, Mỹ đề nghị Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thu nhận VNCH làm thành
viên; một lần nữa, Liên Xô dùng quyền phủ quyết để ngăn chặn [8].
Tháng
8 năm 1975, sau khi VNCH ngừng hiện hữu, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CHMNVN),
chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17, và VNDCCH nộp đơn gia nhập LHQ. Mặc dù ở
Đại hội đồng LHQ, có 123 nước ủng hộ, không có nước chống đơn gia nhập của
CHMNVN và VNDCCH, Mỹ dùng quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an LHQ để ngăn
chặn [9].
Từ
cuối năm 1975 cho đến tháng 7 năm 1976, chính phủ CHMNVN và VNDCCH tổ chức Hội
nghị Hiệp thương chính trị, tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cho cả nước, khai
sinh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).
Tháng
9 năm 1977, CHXHCNVN chính thức gia nhập LHQ [10].
Trước
sự kiện Mỹ dùng quyền phủ quyết năm 1975, Trung Quốc tuyên bố hành động ngăn
chặn hai Nhà nước CHMNVN và VNDCCH gia nhập LHQ là “sự vi phạm toàn diện
các quy định rõ rệt của Hiến chương LHQ và các nghị quyết liên quan của Đại hội
đồng” [11].
Phản
ứng của Trung Quốc cho thấy chính Trung Quốc cũng công nhận, từ Hội nghị Geneva
1954 cho đến muà Hè năm 1976, Việt Nam có hai Nhà nước riêng biệt: VNCH/CHMNVN
và VNDCCH. CHMNVN khai sinh năm 1969.
Để
phản ánh quan điểm trên, Trung Quốc đề nghị lập quan hệ ngoại giao với VNCH sau
Hội nghị Geneva năm 1954 và sau Hội nghị Paris năm 1973. VNCH không đáp ứng đề
nghị của Trung Quốc [12].
Phản
ứng không thuận lợi của Liên Xô hay Mỹ, ở mỗi giai đoạn khác nhau, ngăn chặn nỗ
lực gia nhập LHQ của VNCH/CHMNVN và VNDCCH trong một thời gian dài.
Tuy
nhiên, hành động ngăn chặn hay không công nhận của một vài nước không thể phủ
nhận sự hiện hữu của hai Nhà nước trên đất nước Việt Nam trong hơn hai thập
niên, như tổ chức LHQ và Điều 3 của Công ước Montevideo 1933 khẳng định [13].
Những
dữ kiện lịch sử vừa nêu chứng minh rõ ràng hai điểm sau:
1.
Trong giai đoạn 1954-1976, có hai Nhà nước riêng biệt, cùng hiện hữu trên đất
nước Việt Nam, ngăn cách bởi vĩ tuyến 17.
2.
Cộng đồng thế giới nói chung, Trung Quốc, Liên Xô, và Mỹ nói riêng, công nhận
thực tế
này.
*
* *
2.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM “CÔNG NHẬN” VIỆT NAM CÔNG HÒA?
Có
tác giả so sánh Công hàm 1958 của VNDCCH với Công hàm 1953 của Johor trong vụ
kiện tranh chấp cụm đảo Pedra Branca trước Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) giữa
Malaysia và Singapore và đề nghị CHXHCHVN “công nhận” VNCH nhằm làm tăng
“tính thuyết phục của việc viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của
VNCH về Hoàng Sa, Trường Sa” [14].
Chứng
cứ lịch sử và pháp lý cho thấy:
Vốn
là thuộc địa của Anh, Malaysia và Singapore lần lượt giành độc lập năm 1957 và
1965; Johor là một trong 13 bang thuộc Malaysia.
Trong
phán quyết về Pedra Branca năm 2008, ICJ cho rằng Johor có chủ quyền đối với
Pedra Branca cho đến giữa thế kỷ XIX.
Khi
Singapore nêu câu hỏi về Pedra Branca năm 1953, quan chức Johor trả lời Pedra
Branca không thuộc quyền sở hữu của chính quyền Johor.
ICJ
cho rằng Johor đưa quan điểm rõ ràng về chủ quyền Pedra Branca qua Công hàm
1953.
Dựa
trên phương cách hành xử chủ quyền của Singapore trong giai đoạn 1953-1980 và
dựa trên sự thiếu vắng hoạt động hành xử chủ quyền của Johor và của Malaysia,
đối với Pedra Branca trong hơn 100 năm, kể từ giữa thế kỷ XIX, ICJ kết luận ở
thời điểm năm 1980, khi Malaysia và Singapore chính thức khởi kiện, chủ quyền
Pedra Branca thuộc về Singapore [15].
Khác
biệt giữa Công hàm 1953 của Johor và Công hàm 1958 của VNDCCH:
1.
Về Công hàm 1953 của Johor:
-
ICJ kết luận, dựa trên chứng cứ lịch sử, Pedra Branca thuộc chủ quyền của Johor
cho đến giữa thế kỷ XIX.
-
Johor không hành xử chủ quyền đối với Pedra Branca trong hơn 100 năm sau đấy.
-
Công hàm 1953 của quan chức Johor phủ nhận chủ quyền Pedra Branca thuộc Johor.
-
Trong gần 30 năm sau khi có Công hàm 1953, Singapore hành xử chủ quyền một cách
hoà bình đối với Pedra Branca trong khi Malaysia không có hành xử nào đáng ghi
nhận.
2.
Về Công hàm 1958 của VNDCCH:
-
Quốc gia Việt Nam (QGVN) và Nhà nước kế thừa, VNCH, luôn luôn khẳng định và
hành xử chủ quyền một cách hoà bình đối với Hoàng Sa – Trường Sa [16].
-
Từ khi khai sinh cho đến cuối năm 1975, VNDCCH không đòi chủ quyền Hoàng Sa -
Trường Sa. Công hàm 1958 và tuyên bố của quan chức VNDCCH ra đời trong bối cảnh
này.
-
Vì cộng đồng thế giới công nhận sự hiện hữu của hai Việt Nam, VNCH và VNDCCH,
và vì Hoàng Sa – Trường Sa thuộc quyền quản lý của VNCH, mọi tuyên bố hay cam
kết, nếu có, của VNDCCH, trực tiếp hay gián tiếp, liên quan đến chủ quyền Hoàng
Sa – Trường Sa không có giá trị pháp lý.
-
CHMNVN, khai sinh năm 1969 và ngừng hiện hữu năm 1976, trực tiếp hay gián tiếp,
khẳng định chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa, trước và sau khi VNCH ngừng hiện hữu
[17].
Sự
hiện hữu của hai Nhà nước Việt Nam và sự khác biệt trong bản chất giữa Công hàm
1953 và Công hàm 1958 cho thấy việc CHXHCNVN “công nhận” VNCH vì Hoàng Sa –
Trường Sa là không cần thiết.
*
* *
3.
PHÁP “XAO LÃNG” HÀNH XỬ CHỦ QUYỀN ĐẢO PHÚ LÂM THUỘC HOÀNG SA?
Có
tác giả cho rằng Pháp “chỉ chiếm nhóm đảo Trăng Khuyết trong quần đảo Hoàng
Sa, ở đó họ đã xây dựng một căn cứ quân sự, trạm khí tượng, và đài phát thanh vào
năm 1937”; Pháp“xao lãng” hành xử chủ quyền đảo Phú Lâm trong giai
đoạn gần giữa thế kỷ XX [18].
Chứng
cứ lịch sử và pháp lý cho thấy:
Hai
nhóm An Vĩnh (trong đó có đảo Phú Lâm) và nhóm Trăng Khuyết, thuộc Hoàng Sa, có
hơn 30 đảo, đá.
Nhà
địa dư người Hà Lan, trong bộ đại từ điển gần 200 năm trước, nói như sau, “Hoàng
Sa là một nhóm đảo trong Biển Nam Hải, thuộc An Nam, bao gồm các đảo đá, và đầy
rừng. Biển vùng này nhiều cá đến nỗi người An Nam ra đây bắt cá hàng năm. Những
đảo chính là đảo Cây, Woody, Rocky, Amphitrite, Lincoln, Pattles, Roberts,
Money, Duncan, Passookeah, Drummonds và Triton.” Woody là tên quốc tế của
đảo Phú Lâm [19].
Khoản
những năm đầu thập niên 1920, Pháp thường xuyên cho tàu tuần hành khu vực Hoàng
Sa, từng khám xét tàu Nhật chuyên chở phốt phát từ đảo Phú Lâm, như ghi nhận
của tác giả người Pháp:
“Khi
được thẩm vấn, người Nhật Bản cầm đầu doanh nghiệp này nói rằng đại diện của
công ti Mitsui Bussan Kaisha của họ đâu dám tự tiện tiến hành việc khai thác
vào cuối năm 1920 mà không thông báo trước cho Tư lệnh Hải quân Sài Gòn, và vị
tư lệnh này, đứng về quan điểm quân sự, đã không thấy cần thiết ra lệnh cấm
đoán… chính quyền Pháp đã thấy không cần thiết phải hủy bỏ sự cho phép hầu như
chính thức mà tư lệnh Hải quân đã cung cấp một cách hơi dễ dãi, (vì) người Nhật
đã hành xử đúng phép tắc đối với nhà chức trách Pháp và họ không hề phủ nhận
quyền của Pháp đối với các đảo Hoàng Sa” [20].
Tháng
3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Pháp
[21].
Từ
giữa đến cuối thập niên 1920, nhiều đoàn khảo sát khoa học của chính quyền Đông
Dương thực hiện nghiên cứu ở Hoàng Sa (và Trường Sa), bao gồm chuyến đi đến đảo
Phú Lâm [22].
Tháng
6 năm 1938, Pháp cho xây trên đảo Phú Lâm “một đài khí tượng phòng mưa bão
và một hoả đăng thường trực nhằm bảo đảm an toàn hàng hải” [23].
Trong
những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Đông Dương tiếp tục
quản lý đảo Phú Lâm nói riêng và Hoàng Sa – Trường Sa nói chung [24].
Cuối
năm 1946 sang đầu năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên Hoàng Sa –
Trường Sa, dưới danh nghĩa giải giới quân Nhật. Khi quân Tưởng đến đảo Phú Lâm,
Pháp phản đối. Chính quyền Tưởng bác bỏ đề nghị để quốc tế giải quyết của Pháp.
Đầu năm 1950, quân Tưởng rút khỏi đảo Phú Lâm.
Tháng
10 năm 1950, sau khi ký kết Hiệp ước Elysée, Pháp chính thức trao quyền kiểm
soát Hoàng Sa – Trường Sa cho QGVN.
Tháng
9 năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
QGVN tuyên bố Hoàng Sa – Trường Sa thuộc Việt Nam. Các thành viên Hội nghị
không phản đối tuyên bố của Việt Nam [25].
Trong
cả ba hội nghị quốc tế ở Cairo, Potsdam, và San Francisco, tuyệt đại đa số
những nước tham dự không xem Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Hoa. Hội nghị
quy định Nhật phải trao trả các vùng đất đã chiếm đoạt trong chiến tranh cho
nước sở hữu. Đại diện chính quyền Tưởng có mặt ở Cairo và Potsdam nhưng không
phản đối quyết định của hội nghị [26].
Đầu
năm 1956, nhân cơ hội Pháp chuẩn bị rời khỏi Đông Dương như quy định ở Hội nghị
Geneva, quân đội CHNDTH chiếm đóng nhóm An Vĩnh; quân đội VNCH chiếm đóng nhóm
Trăng Khuyết. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH tái khẳng định chủ quyền Hoàng Sa –
Trường Sa [27].
Những
chứng cứ trên chứng minh Pháp hành xử chủ quyền Hoàng Sa (và Trường Sa), bao
gồm đảo Phú Lâm, ít nhất là từ đầu thập niên 1920 cho đến khi họ rời Đông
Dương. Người Nhật và người Tàu đến đảo Phú Lâm để khai thác phốt phát khi đảo
Phú Lâm không là “terra nullius” (đất vô chủ).
*
* *
4.
ĐỔI TÊN NƯỚC THÀNH “VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA”?
Trong
phong trào chỉnh sửa Hiến pháp 2013 hiện nay, có không ít ý kiến đề nghị đổi
tên nước thành VNDCCH.
Vì
Trung Quốc tích cực sử dụng Công hàm 1958 và tuyên bố của quan chức VNDCCH về
Hoàng Sa – Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 để đánh lừa dư luận quốc tế và
nhân dân Trung Quốc, một tên nước VNDCCH hay tương tự như CHDCVN, do không khác
biệt đáng kể khi dịch sang tiếng nước ngoài, sẽ gây trở ngại rất lớn cho quá
trình đấu tranh vì chủ quyền trên Biển Đông [28].
Một
tên nước “Cộng hoà Việt Nam” (CHVN), như trong CHMNVN, chính quyền ở phía Nam
vĩ tuyến 17 trong giai đoạn 1969-1976, từng trực tiếp hay gián tiếp khẳng định
chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa, tạo nhiều thuận lợi hơn, so với tên nước VNDCCH
hay CHDCVN, cho nỗ lực bảo vệ quyền lợi đất nước.
*
* *
5.
HƯỚNG ĐI TỚI CHO VIỆT NAM TRƯỚC ĐE DỌA CỦA NGOẠI BANG
Bài
viết này góp phần giải đáp câu hỏi: Có chăng hai Nhà nước Việt Nam hiện hữu
trong 20 năm trước khi khai sinh Nhà nước CHXHCNVN, và từ đấy, giải đáp các
vướng mắc liên quan đến Công hàm 1958 cũng như mọi tuyên bố hay cam kết, nếu
có, của VNDCCH trong giai đoạn trước năm 1975 về chủ quyền Hoàng Sa – Trường
Sa.
Bài
viết đồng thời phản biện một số quan điểm về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
Trong
giải quyết tranh chấp giữa hai nước, ICJ vẫn sử dụng nguyên tắc “quieta non
movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn định”. Theo nguyên tắc này,
ICJ có thể đưa phán xét thuận lợi cho nước đang chiếm giữ một vùng đất, vùng
biển, dù chủ quyền ban đầu không thiết lập rõ ràng, nhưng có hành xử thích hợp
trong một thời gian lâu dài [29].
Việt
Nam nên nhận thức rằng:
(1)
Việc
Trung Quốc khẩn trương thành lập thành phố hành chính Tam Sa để quản lý Hoàng
Sa – Trường Sa, tổ chức du lịch ở Hoàng Sa, v.v. là đi sát với nguyên tắc “quieta
non movere”, nhằm chứng minh với thế giới Trung Quốc đang hành xử chủ quyền
“một cách hoà bình” đối với các đảo, vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam cho đến
khi bị Trung Quốc chiếm đóng năm 1956, và chiếm đoạt bằng vũ lực năm 1974 và
năm 1988.
(2)
Sự
leo thang xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc qua hành động cắt dây cáp,
sách nhiễu, hành hung ngư dân, hay bắn vào tàu ngư dân hành nghề ở vùng biển cổ
truyền của Việt Nam cho thấy phản ứng của Việt Nam, qua tiếp tục họp báo lên
án, tiếp tục trao công hàm phản đối, v.v., trong nhiều năm nay, không khiến cho
Trung Quốc lùi bước [30].
(3)
Phương
cách hành xử trong giai đoạn 1953-1980 đối với Pedra Branca của Singapore và
Malaysia (nước ban đầu có chủ quyền đối với Pedra Branca), và quyết định của
ICJ trao chủ quyền Pedra Branca cho Singapore năm 2008 là bài học có giá trị
cho Việt Nam.
So
với Trung Quốc, Việt Nam có chứng cứ lịch sử rõ ràng, có cơ sở pháp lý vững
chắc đối với chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
Dựa
trên quyết định của ICJ trong các trường hợp khác nhau, bài viết cho thấy việc
kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp Hoàng Sa – Trường Sa gây nhiều bất lợi
cho Việt Nam và tạo nhiều thuận lợi cho Trung Quốc.
Hơn
bao giờ hết, lãnh đạo Việt Nam nên mạnh dạn chứng tỏ:
–
Bản lĩnh và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, trên cơ sở luật
pháp quốc tế.
–
Khả năng phát huy đại đoàn kết dân tộc để đối phó với đe dọa nghiêm trọng của
ngoại bang, và để hình thành một xã hội dân sự, cần thiết cho sự phát triển bền
vững của Việt Nam và sự tín nhiệm rộng rãi của cộng đồng thế giới.
–
Chính sách đối ngoại minh bạch, rõ ràng, để xây dựng một khu vực Đông Nam Á hoà
bình và ổn định.
Lịch
sử đang trông chờ.
T.V.C.
Chú
thích:
1. ”Trung Quốc muốn
duy trì hiện trạng trên biển Đông?”, Việt Hà, 2013.
“Công
hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam”, Nhóm PV Biển Đông,
2011
2. “China’s War With
Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications”, King Chen, 1987, p. 46.
“Toward
a New Framework for Peaceful Settlement of China’s Territorial and Boundary
Disputes”, Junwu Pan, 2009, p. 172
“Nansha
indisputable territory”, Li Jinming, 2011
“Experts
reject Vietnamese author’s sovereignty claim over islands”, Ling Yuhuan, 2012
3. ”La souverainete sur
les archipels Paracels et Spratleys”, Monique Chemillier-Gendreau, 1996, p.
122.
“Chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Từ Đặng Minh Thu, 2007
“Giải
pháp cho vấn đề Biển Đông”, Tạ Văn Tài, 2010
“Vietnam’s
Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime
Claim”, Nguyễn Hồng Thao, 2012
“Nhìn
lại Công hàm Phạm Văn Đồng 1958″, Duy Tân Joële Nguyễn, 2012
4. “The major
international treaties of the twentieth century”, (II), John Ashley Soames
Grenville, Bernard Wasserstein, 2001, p. 619.
“Hiệp
định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương”, Đinh Phương, 2010
5. “The Pentagon
Papers: The Defense Department History of United States Decisionmaking on
Vietnam”, (I), Senator Gravel Edition, 1971, p. 247
“The
Vietnam Wars 1945-1990”, Marilyn Young, 1991, p. 53
“Article
4”, United Nations, 1959
6. “Vietnam and the
Soviet Union: Anatomy of an Alliance”, Douglas Pike, 1987, p. 42.
7. “Ho Chi Minh: A
Life”, William Duiker, 2000, p. 500.
8.”Foreign Relations of
the United States, 1958–1960”,
Volume
II, United Nations and General International Matters, Document #27
9.”Admission of new
Members and related matters”, United Nations, 1976
10.”Chính phủ Nhiệm kỳ
Quốc hội Khoá VI (1976-1981)”, Cổng Thông tin Điện tử
11.”Admission of new
Members and related matters”, United Nations, 1976
12.”La Chine et le
reglement du premier conflit d’Indochine (Geneve 1954)”, Francois Joyaux, 1979,
p. 297
“The
China-Cambodia-Vietnam Triangle”, Wilfred Burchett, 1981, pp. 36-37
“More
Evidence of Beijing’s Betrayal”, Vietnam Courier, #7, 1981, p. 5
13.”Montevideo Convention
on the Rights and Duties of States”, Đại học Oslo, Na Uy,
14.”Công nhận VNCH vì
biển đảo ngày nay?”, Dương Danh Huy và cộng sự, 2013
15.”Case concerning
sovereignty over Pedra Branca, Middle Rocks and South Ledge”, International
Court of Justice, 2008
16.”White Paper on the
Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands”, Bộ Ngoại giao VNCH, 1975,
p. 52
17.”White Book: The
Hoang Sa and Truong Sa Archipelagos-Vietnamese Territories”, Bộ Ngoại giao
CHXHCNVN, 1982, p. 14
18.”Viet Nam, China, and
the conflict in the Southeast Asean Sea”, Jonathan London và Vũ Quang Việt,
2013
Bản
dịch tiếng Việt: “Việt Nam, Trung Quốc và Xung đột ở Biển Đông Nam Á”, Jonathan
London and Vũ Quang Việt, 2013
19.“Algemeen
aardrijkskundig woordenboek”, Jacobus Van Wijk Roelandszoon, 1821, M-P, p. 862
20.“A propos de iles
Paracels”, P.A. Lapicque, Extreme-Asie – Revue Indochinoise illustrée #38,
1929, pp. 605-616
“White
Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands”, Bộ Ngoại giao
VNCH, 1975, pp. 36-37
”Sovereignty
over the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, p.
104
21.”Sovereignty over
the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, p. 37
22.“Oiseaux des Iles
Paracels”, J. Delacour & P. Jabouille, 1930, pp. 4-5
“Contribution
a l’etude des iles Paracels. Les phosphates”, P. Maurice Clerget, 1932, pp.
12-15
23.“La question de
Hainan et des Paracels”, Claudius Madrolle, Revue Politique Etrangère, Juin
1939, pp. 302-312
24.“Vietnam’s
Sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa Archipelagoes”, 1979,
Document
#12, quyết định bổ nhiệm nhân viên trên đảo Phú Lâm vào tháng 8 năm 1941
25.”Sovereignty over
the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, pp. 39-41
26.”Sovereignty over the
Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, pp. 119-120
“Vietnam’s
Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime
Claim”, Nguyễn Hồng Thao, 2012
27.”Sovereignty over
the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, pp. 42-43
28.“Thêm phương án về
tên nước: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Nghĩa Nhân, 2013
“Đổi
lại tên nước là trở về đúng bản chất chế độ”, Nguyễn Hưng, 2013
29. “Estoppel,
Acquiescence and Recognition in Territorial and Boundary Dispute Settlement”,
Nuno Sergio Marques Antunes, 2000
30. “Phản đối Trung
Quốc thành lập thành phố Tam Sa”, 2007
“Việt
Nam phản đối Trung Quốc làm đứt cáp tàu Bình Minh 02”, 2012
“Trao
công hàm phản đối Trung Quốc bắn tàu cá của ngư dân Việt Nam”, 2013
“Phản
đối Trung Quốc đưa khách du lịch ra Hoàng Sa”, 2013
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
---------------------------------------------------
BÀI VIẾT LIÊN QUAN :
Dương
Danh Huy
26/04/2013
16-4-2013
Dương Danh Huy
và cộng sự
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Cập nhật: 09:14 GMT - thứ hai, 15 tháng 4, 2013
11-4-2013
No comments:
Post a Comment