Wednesday, 1 May 2013

BẰNG CÁCH NÀO, HỌ ĐẾN ĐƯỢC ĐẤT TỰ DO ? (Ngọc Lan - RFA)




Ngọc Lan, thông tín viên RFA
2013-04-29

Biến cố 30 Tháng Tư năm 1975 làm thay đổi vận mệnh cả dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt sống trong giai đoạn này, ít nhiều đều bị cuốn vào vòng xoáy của thời cuộc, của những biến đổi đau thương.
Cũng từ đây, lịch sử hiện đại Việt Nam phải ghi nhận thêm một sự kiện đau đớn của dân tộc khi hàng triệu người dân chấp nhận làm thân phận của kẻ ly hương, rứt ruột rời xa gia đình, xa xóm làng, xa tất cả những gì thân quen nhất để tìm đường đến đất tự do.
Chuyến ra đi của mỗi người là một câu chuyện rất riêng, không ai giống ai, nhưng tất cả đều là một hành trình không quên trong cuộc đời của họ, dù thời gian hơn 30 năm đã trôi qua.

Tháng 4 định mệnh

Đào Nguyễn, hiện là một chuyên viên tài chánh đang sống tại Houston thuộc tiểu bang Texas, rời Việt Nam vài ngày 29 Tháng Tư năm 1975, khi vừa tròn 10 tuổi.
Theo Đào, chuyến đi định mệnh của cô “tương đối trôi chảy và ít nước mắt hơn so với rất nhiều người Việt khác”:
“Lúc bấy giờ tôi còn là một đứa nhóc tì nên hoàn toàn không có quyết định gì. Ai biểu đi thì đi, xách thì xách, khiêng thì khiêng.
Chiều ngày 29 tháng Tư năm ấy, ba tôi đưa gia đình đến bãi Sau Vũng Tàu để rời Việt Nam cùng với một số gia đình khác.
Nhìn hình ảnh của ba tôi từ từ nhỏ lại, xa dần, mờ dần rồi khuất hẳn, tôi cứ ngỡ ba sẽ đi sau bằng một chiếc tàu khác. Nhưng không ngờ ba tôi đã quyết định ở lại chọn con đường nghĩa khí cho riêng ông.
Tàu rời bến lúc 7 giờ chiều và đến 4 giờ sáng thì loa phóng thanh báo tin tàu bị bể bơm nước và kêu gọi đàn ông thanh niên phụ tát nước. Trời còn tối đen, lúc đó mọi người lo lắng tàu sẽ đắm.
Các bà thi nhau đọc kinh cầu nguyện như ri. May mắn lúc đó có một chiến hạm của Mỹ đi qua và cho tất cả lên tàu.
Từng người một leo lên cái thang dây trong tiếng la hét, khóc lóc. Một số bà mẹ, trong đó có mẹ của tôi réo gọi con cái mang theo hành lý leo lên.
Bây giờ nghĩ lại cũng còn ngán vì một tay phải nắm vào thang dây, còn tay kia thì xách đồ nặng. Rồi lại còn phải leo xuống để lấy thêm đồ trong lúc người ta từ dưới đang đi lên và lính Mỹ thì không cho xuống, mà mẹ tôi thì cứ la um sùm.
Tôi còn nhớ khi tôi nói: 'thôi mẹ ơi, bỏ lại tất cả đi!' tôi bị mẹ 'bộp' cho một cái đau điếng nên im luôn cho tới mấy ngày.
Chuyện đến đất tự do của tôi chỉ có vậy thôi. Nhưng nghĩ đến những người đi vượt biên rồi bị cướp bóc, hãm hiếp, hoặc bị rớt xuống biển tôi thấy đau xót quá bởi tự do của họ đã phải đổi bằng một giá quá lớn!”

Ra đi, vì không được học đại học

Chị Jennifer Nguyễn, ngoài 50 tuổi, đang sống tại thành phố Seattle thuộc tiểu bang Washington, nhớ mãi kỷ niệm về các chuyến đi vượt biên của mình vào năm 1979, sau khi không được chấp nhận vào trường Cao Đẳng Sư Phạm với lý do “có thân nhân đi nước ngoài.”

Chị Jennifer kể:
“Sau khi học xong lớp 12 khoảng Hè năm 1979, tôi đậu vào trường Cao Đẳng Sư Phạm nhưng bị đuổi học vì có thân nhân đi nước ngoài. Thế là ba tôi bắt tôi phải vượt biên vì không còn tương lai nếu chỉ có bằng tú tài.
Tôi đi chuyến đầu chung với mấy anh chị, hết thảy là 6 người. Chuyến đó ở nhà có bao nhiêu nữ trang của Má tôi chết để lại đem chung một mớ cho người tổ chức.
Sau khi ngủ một đêm trong một ngôi chùa ở Vũng Tàu, tất cả bị công an ập vào bắt chở vào trại giam Vũng Tàu và bị tịch thu hết phần nữ trang còn lại.
Lần đó, mấy chị em tô bị tù một tháng, trong đó có một chị ruột và một chị dâu tôi đang mang thai khoảng 6, 7 tháng.
Sau chuyến đó, tôi không muốn đi nữa vì quá hãi hùng chuyện ở tù, nhưng ba tôi không chịu thua và thuyết phục tôi đi cho bằng được.
Tôi tiếp tục đi chuyến thứ 2, thứ 3, vẫn không thành công nhưng hên là không bị bắt mà trở về nhà an toàn.
Đến lần thứ 4 vào khoảng cuối năm 1979, chỉ vài ngày trước lễ Giáng Sinh, tôi ra đi ngay tại thành phố Mỹ Tho, nơi tôi ở.
Đi một mình, không có ai tiễn đưa vì sợ bị lộ. Tôi chỉ cần đi bộ ra vườn hoa mất khoảng 15 phút từ nhà, rồi bước qua bờ tường của vườn hoa là xuống tới ghe.
Ghe này là ghe chính, giả dạng đi đánh cá, từ từ đi ra cửa biển. Khi gặp tàu đi tuần thì tôi phải thụt đầu xuống vì da tôi trắng không giống dân đi đánh cá. Ghe thì nhỏ mà có đến 76 người, ngồi chật như xếp cá mòi vậy.
Ghe vượt sóng ra cửa biển, đi chưa bao lâu thì bị công an rượt. Chủ ghe xả hết tốc độ, thoát được công an, nhưng ghe lại bắt đầu lạc phương hướng.
Chưa hết, đến lúc mọi người tìm nước uống thì chỉ thấy toàn là dầu thôi. Thì ra vì gấp rút lúc đổ người và tiếp liệu vào tàu chính, thùng để nước và dầu nằm lẫn lộn, mở thùng nào cũng toàn là dầu chứ không tìm thấy nước, thế là bà con bắt đầu giành nước uống, chửi lộn nhau chí chóe.
Đi không biết bao lâu thì thấy vài chiếc tàu nhỏ, nhưng ban đêm nên không dám ra hiệu cầu cứu mà phải chờ đến trời sáng nhìn cho kỹ rồi mới dám đốt vải để xin tiếp cứu thì họ lại làm lơ.
Mọi người vừa nản vừa lo vì lương thực mang theo chỉ có một bao gạo do chủ ghe đem theo nấu cháo phát cho mọi người, ăn sắp hết, nước thì lộn với dầu…
Sau 3, 4 ngày lênh đênh trên biển thì nhìn thấy dãy núi ở xa xa, bà con mừng như chết đi sống lại vậy. Thế là chủ ghe và một số người bàn là phải phá ghe và vứt máy xuống biển thì nó mới cho ghe mình vào. Sau vài giờ dằn co thì ghe được vào gần đến bờ, mọi người phải nhảy xuống biển và tự lội vào.
Khi vào bờ rồi thì mọi người mới biết mình đến bờ biển Mã Lai, phải ngủ trên bờ biển một đêm, đến chiều ngày hôm sau mới có tàu của Cao Ủy Tị Nạn chở sang đảo Pulau Bidong.
Những ngày trên trại thì hết đi xin quần áo cũ thì xin đồ ăn hộp của những người đi định cư trước để ăn thêm phần ăn do Cao ủy phát. Tôi ở trại khoảng hơn 6 tháng.
Đến ngày ra cầu Jetty để đi định cư, được nghe ca sĩ Lệ Thu hát trên đài bài “Ngày Mai em đi…” nghe vui cho mình nhưng cũng không khỏi chạnh lòng nghĩ đến những người quen trên đảo bị rớt phỏng vấn không biết đến bao giờ mới tới phiên họ đi định cư..”

(còn tiếp)


Ngọc Lan, thông tín viên RFA
2013-04-30

Biến cố 30 Tháng Tư năm 1975 làm thay đổi vận mệnh cả dân tộc Việt Nam. Cũng từ đây, lịch sử hiện đại Việt Nam phải ghi nhận thêm một sự kiện đau đớn của dân tộc khi hàng triệu người dân chấp nhận làm thân phận của kẻ ly hương, rứt ruột rời xa gia đình, xa xóm làng, xa tất cả những gì thân quen nhất để tìm đường đến đất tự do.

Không thể quên
Chuyến ra đi của mỗi người là một câu chuyện rất riêng, không ai giống ai, nhưng tất cả đều là một hành trình không quên trong cuộc đời của họ, dù thời gian hơn 30 năm đã trôi qua.

Sơn Trần, một kỹ sư điện toán đang sống tại San Jose, miền Bắc California, đặt chân đến phi trường Los Angeles vào một đêm mùa thu năm 1984, cũng không quên 3 chuyến vượt biên của mình khi đang còn là sinh viên đại học Bách Khoa Sài Gòn.

Sơn kể dưới sự móc nối của ba má anh từ miền Trung ra Vũng Tàu, anh vượt biên năm 1983, lúc đang học đại học bách khoa ở Sài Gòn.

Không kể vài lần xuống nhà tay tổ chức nằm cả đêm rồi sáng hôm sau lại mò về thành phố vì bị “bể” thì lần vượt biên thành công là lần thứ 3, sau 2 lần thực sự bước lên tàu rồi quay về. Cả ba lần anh đều đi ở Bà Rịa.

Theo lời anh Sơn, một lần tàu chạy ra khỏi cửa biển Vũng Tàu nửa ngày rồi phải quay trở lại vì tàu vô nước và tay tài công đầy kinh nghiệm không chịu đi tiếp vì biết chắc là đi là chết.

Một lần khác khi anh đã trèo lên tàu và tàu rời bãi nhưng 'dân đi hôi' bám theo bát nháo quá khiến người tài công sợ, ôm la bàn nhảy xuống lội vô bờ chạy trốn. Anh Sơn cùng với những người còn lại trên tàu cũng chạy tán loạn.

Lần đó trời gần sáng anh mò lên đường cái đón xe đò Bà Rịa về lại Sài Gòn mà túi không có một đồng. Người lơ xe ngó thấy anh chân và ống quần bết bát bùn biết ngay là dân vượt biên không thành. Người lơ xe thấy tội nghiệp nên kêu anh trèo lên nóc xe ngồi.

Tuy nhiên, anh Sơn cho rằng số anh hên, đi lên đi xuống Sài Gòn-Bà Rịa-Vũng Tàu nhiều lần vậy mà không lần nào bị tóm.

Lần vượt biên cuối cùng cũng như mơ.

Qua mấy ngày lênh đênh trên biển mửa thốc mửa tháo tới mật xanh, rồi thì tàu cũng ra tới hải phận quốc tế và được tàu hàng Pháp đi ngang bắt gặp vớt vô Singapore.

Sơn ở Singapore hơn 3 tháng, được đưa qua Galang Indonesia học Cultural Orientation 6 tháng, rồi được đưa về lại Singapore để đi Mỹ vì có người anh bên Mỹ bảo lãnh.

Sơn Trần tâm sự:
“Tôi bước xuống LAX một đêm Mùa Thu năm 84. Anh chị tôi đi đón. Trời bên ngoài tối đen nhưng đèn đường và đèn xe sáng rực. Tôi biết cuộc đời sẽ thay đổi khá hơn từ đó, vì dù bóng đêm có bao phủ cả bầu trời nhưng đây đó vẫn có những bóng đèn đường rọi sáng những bước chân dọ dẫm làm lại cuộc đời, và nhất là mình biết chắc ngày mai bình minh sẽ trở lại.”

Nếu như hầu hết những người liều mình đi tìm hai chữ “tự do” không thể rời Việt Nam từ thời điểm 30 Tháng Tư thì phần lớn đều chọn con đường vượt biên, bất chấp mọi hiểm nguy. Nhưng với ông Franklin Đắc Nguyễn, cư dân thành phố Anaheim ở miền Nam California, thì câu chuyện tị nạn cộng sản của ông khi đang là bộ đội đóng quân tại Battambang ngay sát biên giới Cambodia và Thái Lan, cũng khiến người ta phải suy nghĩ.

“Từ phi trường Phụng Dục, Buôn Mê Thuột, nhóm chúng tôi được lệnh không vận bằng những chuyến bay thổ tả thời Liên Xô xưa cũ để lại. Cứ thế sau vài giờ bay, chúng tôi đã có mặt tại Siem Reap vào đầu mùa mưa cuối Thu 1979. Cả một thệ hệ tuổi trẻ của chúng tôi 18, 19 tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, nhưng 'sinh Nam tử Camp' thì cầm chắc trong tay. Biết thì biết thế, nhưng chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác hơn!

Những ngày sống trên đất Miên là những ngày chúng tôi bị bủa vây bởi sự chết chóc, lo sợ, kinh hoàng. Sống trong cảnh màn trời chiếu đất nơi rừng thiêng nước độc, ngày chiến đấu, đêm về di động, hoán chuyển vị trí. Chúng tôi có cảm tưởng mình như loài thú hoang ghẻ lạnh, sống lây lất bên lề xã hội chờ ngày Chúa Phật gọi về.”

Theo ông Franklin, tình hình chiến sự mỗi ngày một căng thẳng, ông lại được điều động về Battambang, sát biên giới Thái, nơi trận chiến đang xảy ra khốc liệt. Nhóm của ông tất cả 7 người đồng lòng với quyết định táo bạo là cố tìm sự sống trong cái chết đang rình rập đợi chờ. Mọi người tự nguyện ra đầu thú với nhà chức trách Thái Lan sau một ngày đêm băng rừng vượt suối trực diện với nhiều hiểm nguy bên mình. Đến được đồn lính biên phòng của người Thái là họ đã biết mình bước những bước đầu tiên đến đất tự do.

Ông Franklin nhớ lại:
“Cả một khu vực biên giới Thái-Miên náo động lên vì sự xuất hiện của chúng tôi, cả hai bên đều ngần ngại, sợ, nghi ngờ nhận diện lẫn nhau. Họ bắt buộc chúng tôi, ngay lập tức trở lại biên giới để vứt bỏ những vũ khí mà chúng tôi lỡ mang theo để phòng thân và quay trở lại gặp họ điều tra tiếp.
Sau vài tuần thanh lọc, điều tra và với lòng thành tâm, thiện chí của chúng tôi, họ đã liên lạc với ủy ban Liên Hợp Quốc nhờ can thiệp và giúp đỡ, hợp thức hóa ý nguyện của chúng tôi.
Trong một thời gian ngắn, 7 đứa chúng tôi đã thay da, lột xác trở thành người tị nạn cộng sản như vài ngàn người Việt, Miên, Lào hòa mình trong trại tị nạn NW9, cạnh biên giới Thái-Miên, chờ ngày nhận lãnh đi một đệ tam quốc gia.
Tất cả 7 đứa chúng tôi đồng lòng xin đi Mỹ định cư dù thời gian phải chờ đến thiên thu cũng chấp nhận.”

Nhưng ông Trời không phụ lòng người có kiên trì chờ đợi, chỉ chừng sáu tháng sau đó, tất cả 7 người trong nhóm ông Franklin được chấp nhận cho sang Mỹ định cư qua chương trình bảo lãnh của các hội từ thiện bên này.

Sự tự do là vô giá, họ đã phải đánh đổi biết bao mồ hôi, nước mắt, bao nhiêu vong linh, xương máu của bạn bè, của nhân dân, của những người kém may mắn nằm lại. Hơn 30 năm qua đi, thời gian cứ mãi đong đưa. Nhiều đêm về, nhiều người trong số họ thực sự không rõ mình đang ở đâu trong cõi đời này. Có những người cảm thấy hạnh phúc, quên đi những năm tháng cơ cực ám ảnh đã qua. Có những người, nỗi ám ảnh của những ngày đen tối nhất cuộc đời cứ dai dẳng, đeo đuổi trong suốt quãng đời còn lại.


--------------------------------


HÌNH ẢNH THUYỀN NHÂN



------------------------

Nguyễn Quốc Cường

Trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 years of Humanitarian Action,” viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống.  Bà Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của Thế Kỷ 20”.  Thế giới đã bước qua Thế Kỷ 21, nhưng bạo lực chiến tranh do cuồng vọng bá chủ của con người vẫn làm nối tiếp thảm kịch tị nạn với những làn sóng di tản lánh nạn mang tên những địa danh mới như Kosovo, Đông Timor, Chechnya và Darfur.  Tuy nhiên có lẽ trong lịch sử của nhân loại, ít khi nào có một cuộc di tản bi thảm và kéo dài như các làn sóng thuyền nhân rời Việt Nam kể từ sau 1975 cho mãi đến thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ vừa qua.  Sự phi lý của thảm kịch thuyền nhân Việt Nam còn nổi bật vì những người tị nạn Việt Nam đã phải rời quê hương ra đi để tìm quyền sống, trong khi tiếng súng đã không còn trên lãnh thổ của đất nước họ.  Vào thời đó, khi niềm ước vọng hòa bình mà mỗi người dân Việt đều ấp ủ trong lòng từ bao nhiêu năm trời mới vừa ló dạng, đáng lẽ toàn dân tộc đã có thể nối tay nhau để cùng kiến tạo một đất nước đã phải chịu quá nhiều khổ đau và mất mát trong gần nửa thế kỷ khói lửa triền miên.  Trái lại, lòng thù hận quá đà và niềm cuống tín chủ nghĩa mù quáng của những người nắm quyền lực bằng súng đạn đã tiếp tục bao phủ đất nước và dân tộc trong một không gian đàn áp và khủng bố tàn bạo, khiến cho người dân miền Nam thời đó chỉ còn một lối thoát là lao mình ra biển cả để tìm con đường sống.  Với một niềm hy vọng và một lời cầu nguyện, hàng chục ngàn gia đình gồm cả trẻ thơ và bô lão đã ra khơi hướng về những bến bờ hy vọng, bất kể những hiểm nguy mà có lẽ tất cả mọi người đã dự đoán được trước khi quyết định ra đi.

Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang.  Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5,000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4,000 tị nạn, Tân Gia Ba 1,800 người, và có khoảng 1,250 người cũng đã đến Phi Luật Tân.  Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng.  Và đến cuối năm 1977, đã có trên 15,000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á.  Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.

Vào cuối năm 1978, đã có 62,000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông-Nam Á.  Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54,000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên.  Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ.  Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả cũng đã gia tăng.

Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng.  Những lớp người này đã đem cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên.  Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình.  Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải tặc.  Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên.  Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả.  Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương.

Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới.  Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển.  Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.

  Chương Trình Trợ Giúp Thuyền Nhân của Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc Qua các giai đoạn
  Những chương trình trợ giúp người tị nạn Việt Nam thuộc Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (The United Nations High Commissioner for Refugees “UNHCR”), đã khởi sự từ năm 1973, và đã có ở Hà Nội kể từ 1975, do lời mời của chính phủ Hà Nội.  Kể từ năm 1973, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã có mặt tại Việt Nam để trợ giúp cho nhiều làn sóng người di tản nội địa, đã phải dời chỗ ở nhiều nơi lánh nạn, khi quân đội Bắc Việt bắt đầu tràn vào vùng Bến Hải để công khai tấn công Miền Nam sau khi Hòa Đàm Ba Lê mới được ký kết giữa hai bên.

Vào cuối thập niên 1970, thảm kịch những làn sóng thuyền nhân từ Việt Nam vượt biển đi tìm tự do đã tác động mạnh vào dư luận quốc tế và trở thành động cơ thúc đẩy Cao Ủy Tị Nạn Liên hiệp quốc phát động một chương trình trợ giúp quy mô lớn đặc biệt nhắm vào những người tị nạn Việt Nam bắt đầu đổ xô ra biển cả để tìm đường thoát khỏi cuộc sống đầy đọa dưới chế độ Cộng Sản.  Những làn sóng di tản bằng đường biển từ thời đó đã mang đến cho thiên bi sử thuyền nhân Việt Nam kéo dài gần 20 năm, từ 1975 cho đến cuối thập niên 1990.

Từ 1979 đến 1991: Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program, “ODP”)
Vào những năm cuối cùng của thập niên 1970, những thông tin về thảm kịch thuyền nhân Việt Nam đã làm rung động dư luận thế giới, và thúc đẩy Liên Hiệp Quốc vào cuộc để tìm một giải pháp cho vấn đề.  Vào thời đó, UNHCR đã thiết lập Chương Trình ODP để đưa những người muốn rời khỏi Việt Nam ra đi bằng những phương tiện an toàn hơn, trong khuôn khổ của một chương trình trợ giúp người tị nạn do Liên Hiệp Quốc bảo trợ.

Sau khi những lời kêu cứu cảu chính những thuyền nhân thoát nạn, cũng như những nỗ lực vận động của các tổ chức thiện nguyện quốc tế, khơi động sự chú tâm của cộng đồng thế giới, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị tại Geneve vào tháng Ba 1979 để tìm một giải pháp cho vấn đề thuyền nhân Việt Nam.  Tại hội nghị này, một Bị Vong Lục đã được ký kết theo đó Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc được ủy thác trách nhiệm thiết lập một chương trình ra đi có trật tự, để giúp cho những người muốn rời khỏi Việt Nam có thể ra đi bằng những phương tiện an toàn hơn.  Cho đến khi chương trình ODP được trao phó cho tổ chức thiện nguyện quốc tế International Organization for Migration(IOM) vào cuối năm 1991, UNCHR đã giúp đỡ cho 330,000 thuyền nhân, trong đó có 13,252 người Cam Bốt, rời khỏi các trại tị nạn tại Đông Nam Á để đi định cư tại các nước thứ Ba.

Từ năm 1988 đến 1997: Trợ giúp hồi hương (Thuyền nhân Việt Nam) theo Chương Trình Hành Động Toàn Diện CPA
Với việc thông qua Chương Trình Hành Động Toàn Diện vào năm 1989(Comprehensive Plan of Action CPA) dành cho những người tị nạn Đông Dương, UNHCR đã thiết lập những thể thức để đưa người tị nạn hồi hương ở một quy mô rộng lớn.  Chương trình này dành cho những thuyền hân đã được thanh lọc, và không hội đủ điều kiện để được định cư tại các nước thứ ba.  Trong khuôn khổ của Chương Trình CPA, UNHCR đã cấp những khoảng trợ cấp tái định cư trực tiếp cho những thuyền nhân chấp thuận hồi hương dưới hình thức một khoản tiền mặt.  Ngoài ra, UNHCR cũng thực hiện một chương trình kiểm tra hậu hồi hương theo chương trình này.  Mục đích của chương trình kiểm tra hậu hồi hương là để theo dõi việc định cư những người hồi hương và tránh những trường hợp nhữg thuyền nhân bị chính quyền Việt Nam trừng phạt vì đã ra đi tị nạn.

Vào cuối năm 1988, đã có trên 110,000 thuyền nhân từ các trại tị nạn Á Châu hồi hương và được tái định cư tại những địa phương họ đã rời trước đây.  Chương trình Hành Động Toàn Diện CPA của UNHCR chính thức chấm dứt vào ngày 30 tháng 6 năm 1996, đối với những trại tị nạn tại các nước Đông Nam Á, và vào ngày 30 tháng 6, 1997 tại các trại tị nạn Hồng Kông.

Thảm kịch thuyền nhân Việt Nam chỉ thực sự chấm dứt vào năm 1999, sau khi chương trình tái định cư những thuyền nhân hồi hương theo chương trình CPA được hoàn tất.

  SỐ THUYỀN NHÂN TRONG TỪNG GIAI ĐOẠN
(Nguồn: The State of the World’s Refugees 2000, 50 Years of Humanitarian Action, UNHCR)

Bản 1: Tổng kết số thuyền nhân đến lánh nạn  tại các nước tạm dung trong từng giai đoạn
Nước Tạm Dung   1975-1979      1980-1984       1985-1989       1990-1995           Tổng Cộng
 Mã Lai:                     24,103            76,205              2,860                 1,327                     254,495
Hồng Kông:              79,906            28,975              59,518               7,434                      95,833
Nam Dương:           51,156            36,208              19,070               15,274                  121,708
Thái Lan:                 25,723             52,468              29,850                 9,280                  117,321
Phi Luật Tân:         12,299             20,201              17,829                 1,393                    51,722
Tân Gia Ba:              7,858             19,868                4,578                     153                    32,457
Nhật Bản:                 3,073               4,635                1,834                   1,529                   11,071
Ma Cao:                    4,333               2,777                     17                           1                     7,128
Nam Hàn:                    409                  318                    621                          0                     1,348
Các nước khác:     2,566                 340                    321                          0                      3,277
 Tổng cộng:         311,426          241,995           186,498                 56,391                796,310

CÁC NƯỚC NHẬN ĐỊNH CƯ NGƯỜI TỊ NẠN ĐÔNG DƯƠNG
KỂ CẢ THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN 1995
(Nguồn: The State of the World’s Refugees 2000,  50 Years of Humanitarian Action, UNHCR)

Bản 2: Số thuyền nhân được định cư tại các nước trên thế giới
Nước Định Cư:            Cambodia                Lào                 Việt Nam           Tổng Cộng
Hoa Kỳ                         150,240                   240,147            424,490               822,977
Úc Đại Lợi:                    16,308                     10,239            110,996               137,543
Gia Nã Đại                    16,818                     17,274            103,053               137,145
Pháp:                            34,364                     34,236             27,071                 95,671
Anh Quốc:                         273                         346             19,355                 19,974
Đức Quốc(Tây Đức)           874                      1,706             16,848                 19,428
Tân Tây Lan:                  4,421                      1,273               4,921                 10,628
Nhật Bản                        1,061                      1,273               6,469                   8,803
Thụy Sĩ:                         1,638                         593               6,239                   8,470
Hòa Lan:                          465                           33               7,565                   8,063
Na Uy:                              128                            2                6,064                  6,194
Thụy Điển:                         19                           26               6,009                  6,054
Đan Mạch:                         31                           12               4,482                  4,725
Bỉ:                                    745                         989               2,051                  3,785
Phần Lan:                         37                             0               1,859                  1,902
Các nước khác:            8,063                       4,688               7,070                19,821
Tổng Cộng:               235,484                    320,856           754,842            1,311,183

NGUYỄN QUỐC CƯỜNG


No comments:

Post a Comment

View My Stats