Hội nghị các ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 45, hay AMM 45, trong ba
ngày 9, 10 và 11 tháng 7 tại Phnom Penh, đã thất bại. Lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN các
thành viên đã không thể đồng ý trên một thông cáo chung. Lý do là vì Campuchia
đã nhất quyết không chịu đưa vào thông cáo chung điều mà Việt Nam và
Philippines đòi và đa số các nước ASEAN cũng muốn : báo động về tình hình căng
thẳng do Trung Quốc gây ra trên Biển Ðông.
Ðã có rất nhiều
sửa đổi dự thảo để cố tìm thỏa hiệp nhưng không thành. Campuchia vẫn nhất định
không chấp nhận bất cứ một tuyên bố chung nào đề cập đến trách nhiệm của Trung
Quốc ngay cả một cách gián tiếp, viện cớ rằng ASEAN không phải là một tòa án
mặc dù không có đoạn nào trong các dự thảo thông cáo chung được đề nghị lên án
Trung Quốc cả.
Thái độ của
Campuchia, cũng chính là nước chủ trì hội nghị AMM 45 này, là bệnh vực Trung
Quốc đến cùng. Campuchia đã từ chối mọi thảo luận về một lập trường chung của
khối ASEAN về Biển Ðông với lý cớ rằng các xung đột trên Biển Ðông chỉ là những
vấn đề của một vài nước chứ không phải là vấn đề của mọi nước ASEAN. Ðó cũng
chính là lập trường của Trung Quốc.
Sự ngụy biện của Campuchia đã quá
trâng tráo : nếu ASEAN không quan tâm tới
những đe dọa chủ quyền của các thành viên thì nó tồn tại để làm gì ?
Hiến chương của ASEAN đặt hòa bình trong khu vực như là một mục tiêu chính và
ngay trong điều 1 của nó đã khẳng định là chủ quyền của các thành viên phải
được tôn trọng, trong khi hòa bình trên Biển Ðông và chủ quyền của Việt Nam và
Philippines đang bị đe dọa. Campuchia đã ngụy biện như một đại diện của Trung
Quốc. Philippines đã lớn tiếng tố giác thái độ thiếu thành thực này. Việt Nam
tỏ ra rất thất vọng. Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei và Thái Lan cũng
chia sẻ sự thất vọng của Việt Nam.
Ðây là một bước lùi lớn và đặt ra
nhiều câu hỏi quan trọng cho ASEAN. Thí dụ như ASEAN có thể làm được gì nếu vẫn giữ nguyên
tắc đồng thanh cho phép một thành viên, bất kể với động cơ nào, bác bỏ một lập
trường mà đa số ủng hộ? Indonesia sau đó vài ngày đã cố thuyết phục Campuchia
để đi đến một thỏa hiệp có đề cập đến Biển Ðông nhưng một cách mơ hồ, chẳng làm
hài lòng ai và cũng chẳng đụng chạm gì đến Trung Quốc.
Thái độ của Campuchia không bất ngờ đối với ban lãnh đạo
cộng sản Việt Nam. Họ thừa biết là chính quyền Hun Sen đã bị Bắc Kinh mua chuộc
và đã sẵn sàng trở mặt từ hơn một năm nay. Họ không có phương tiện tài chính
của Bắc Kinh và đành chứng kiến một cách bất lực Campuchia rơi dần vào quỹ đạo
Trung Quốc. Tuy vậy thái độ trâng tráo của chính quyền Hun Sen trong hội nghị
AMM 45 cũng vẫn là một đòn quá đau đớn cho họ.
Chính họ đã cưu mang và chiều đãi Hun
Sen, cũng như Heng Samrin, từ khi ông này trốn sang Việt Nam năm 1977 để thoát khỏi
đội hành quyết của chính quyền Pol Pot do Trung Quốc đỡ đầu. Tháng 1-1979, chính họ đã tung quân vào
Campuchia đánh đuổi Pol Pot để đem Heng Samrin, và sau đó Hun Sen, lên cầm
quyền. Họ đã kéo dài cuộc chiếm đóng Campuchia để giúp cho chính quyền Hun Sen
có thời giờ củng cố. Năm 1998, họ
cũng là chính quyền duy nhất ủng hộ cuộc đảo chính trá hình của Hun Sen để loại
bỏ các thành phần khác trong chính phủ liên hiệp và nắm trọn quyền hành dù chỉ
có một thiểu số trong quốc hội. Gần đây
hơn, năm 2008, họ đã lớn tiếng bênh vực cuộc bầu cử bịp bợm đem lại một đa
số gian lận cho Hun Sen. Chính họ đã tích cực vận động để Campuchia được chấp
nhận làm thành viên ASEAN năm 1999.
Và cũng chính họ đã làm trung gian cho
Trung Quốc lập quan hệ với chính quyền Hun Sen, một chính quyền được thành
lập để chống Trung Quốc, gồm những người lãnh đạo đã suýt bỏ mạng dưới tay
chính quyền Khmer Ðỏ do Trung Quốc đỡ đầu.
Cuộc xâm lăng Campuchia của quân đội
Việt Nam năm 1979 có lý do chính đáng, chỉ có điều là chính quyền cộng sản Việt Nam không có
tư cách nào để nhân danh một đạo đức chính trị nào. Nó là phản ứng bắt buộc sau
những tấn công đẫm máu của chính quyền Pol Pot vào các tỉnh biên giới của nước
ta, đồng thời nó cũng cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng của Pol Pot.
Nhưng cuộc chiếm đóng kéo dài hơn
mười năm sau đó đã khiến Việt Nam phải trả giá quá sức chịu đựng. Chưa hề có một thống kê chính thức
về những thiệt hại của cuộc chiến này cho Việt Nam cũng như cho Campuchia. Một
vài tác giả đưa ra con số 25.000 người chết và 55.000 người bị thương về phía
quân đội Việt Nam. Cũng có những tác giả nói tới con số hơn 200.000 chết và bị
thương. Những con số này chỉ dựa trên những tài liệu không đầy đủ. Ngày 12- 6
vừa qua hai chính quyền Việt Nam và Campuchia còn tuyên bố là trong thời gian
từ năm 2000 đến nay hai bên đã phối hợp tìm kiếm và đã quy tập được hơn 14.500
hài cốt bộ đội Việt Nam. Con số này chỉ là một phần nhỏ trong tổng số tử vong
của quân đội Việt Nam vì quân Việt Nam đã rút hết khỏi Campuchia từ tháng
9-1989, nghĩa là hơn mười năm trước, và đại bộ phận thi hài các binh sĩ Việt
Nam thiệt mạng đã được mai táng hoặc chuyển về Việt Nam trước đó. Sự kiện chính quyền cộng sản Việt Nam không
đưa ra một thống kê nào cũng khiến người ta có thể nghĩ rằng những tổn thất đã
rất lớn.
Nhưng không phải chỉ có thế. Cuộc chiến Campuchia đã
khiến Việt Nam kiệt quệ về kinh tế và bị cả thế giới lên án. Lợi dụng tình trạng cô lập và kiệt
quệ đó Trung Quốc đã tung ra chiến dịch biên giới, tàn phá Cao Bằng, Lạng Sơn
và Lao Cai và gây những tổn thất sinh mạng rất lớn cho cả quân đội lẫn thường
dân Việt Nam rồi chiếm luôn nhiều vùng đất cho tới bây giờ, như thác Bản Giốc.
Nên nhớ rằng vào lúc xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung - cũng là lúc
mà làn sóng thuyền nhân đang làm cả thế giới xúc động - chế độ cộng sản Việt
Nam bị nhìn như một tên côn đồ quốc tế trong khi Trung Quốc của Ðặng Tiểu Bình
được nhìn như một chế độ đáng khuyến khích vì đang mở ra với thế giới.
Cũng vì lợi dụng thế cô lập của Việt Nam mà năm 1988
Trung Quốc đã tung hải quân đánh chiếm một số đảo đá của Việt Nam tại Trường
Sa, rồi chiếm thêm một số đảo đá nổi và chìm khác. Cần lưu ý rằng trước đó
Trung Quốc không hiện diện tại Trường Sa. Như vậy nếu Việt Nam không bị cô lập
vì cuộc chiến tranh Campuchia thì Trung Quốc không có mặt ở Trường Sa để có thể
vẽ ra cái lưỡi bò xấc xược đang đe dọa nặng nề cả chủ quyền của Việt Nam lẫn
hòa bình trên Biển Ðông.
Tóm lại chúng ta đã thiệt hại rất
nhiều vì Campuchia để ngày nay Campuchia trở thành một đồng minh của Trung Quốc
và một lưỡi dao bên sườn Việt Nam. Khó có thể có thất bại nào thê thảm hơn.
Các cấp lãnh đạo
cộng sản Việt Nam không thể ngạc nhiên về kết quả này. Nếu phải chọn lựa giữa
Việt Nam và Trung Quốc trong tình trạng hiện nay thì chắc chắn chính quyền Hun
Sen chọn Trung Quốc mạnh hơn, giàu hơn, và sẵn sàng trả giá cao để có một chư
hầu trong nội bộ ASEAN.
Campuchia không có lý do gì để chọn Việt Nam cả vì chế độ cộng sản Việt Nam
chỉ là một bản sao mờ nhạt và thu nhỏ của Trung Quốc. Lý do duy nhất
khiến họ có thể chọn Việt Nam thay vì Trung Quốc là nếu Việt Nam tách hẳn khỏi
quỹ đạo Trung Quốc và chuyển hóa dứt khoát về dân chủ khiến Campuchia bị kẹp
giữa hai nước dân chủ lớn hẳn hơn mình là Việt Nam và Thái Lan. Nhưng Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã
từ chối dân chủ và chọn làm chư hầu của Trung Quốc. Không có gì lạ
nếu giữa thầy và trò, giữa một nước mạnh và một nước yếu, giữa bản chính và bản
sao, chính quyền Hun Sen đã chọn Trung Quốc. Cũng không có gì lạ nếu trong một
tương lai gần Lào cũng sẽ ngả hẳn về Trung Quốc.
Hãy thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra nếu vào năm 1986, cùng với chính sách
gọi là "đổi mới" sau khi chính Liên Xô dưới Gorbachev đã chuyển động,
Ðảng Cộng Sản Việt Nam dứt khoát chọn lựa dân chủ ?
Campuchia và Lào
sẽ không có chọn lựa nào khác vì hoàn toàn lệ thuộc Việt Nam, Việt Nam sẽ là
một nước dân chủ như Campuchia, Lào và các nước ASEAN và sẽ được Mỹ, Châu Âu và
cả thế giới dân chủ yểm trợ, kể cả Liên Xô. Trung Quốc sẽ không dám đụng tới
Việt Nam vì họ vừa quá yếu vừa đang rất cần thị trường tại các nước dân chủ.
Chúng ta sẽ không mất đảo và mất biển, Trung Quốc sẽ không có mặt tại Trường Sa
và sẽ không thể có cái lưỡi bò. Các thỏa hiệp về biên giới trên đất liền và
trên biển chắc chắn sẽ thuận lợi hơn nhiều cho chúng ta. Quan trọng hơn, Việt
Nam, cũng như Lào và Campuchia giờ này đã là những nước dân chủ trong một khối
ASEAN dân chủ và gắn bó không những đủ sức để khiến Trung Quốc kính trọng mà
còn thôi thúc Trung Quốc dân chủ hóa nhanh chóng để sống chung hữu nghị với các
nước trong vùng. Kịch bản đó đã không xảy ra vì Ðảng
Cộng Sản Việt Nam đặt quyền lực của họ lên trên hết. Thay vì một nước Việt Nam dân chủ,
phồn vinh và toàn vẹn nhưng họ có thể mất quyền lực họ đã chọn một nước Việt
Nam nghèo khổ, tụt hậu và bị chèn ép, mất đất, mất đảo, mất biển nhưng trong đó
họ có độc quyền thống trị. Họ không hành xử như một chính quyền Việt Nam mà như
một lực lượng chiếm đóng. Lịch sử sẽ rất nghiêm khắc.
Tuy vậy tình
hình hiện nay cũng chưa đến nỗi tuyệt vọng và hội nghị AMM 45 vừa qua cũng có
tác dụng tốt của nó nếu chính quyền cộng sản Việt Nam vẫn còn một chút sáng
suốt. Thực tế là sau hội nghị này quan hệ giữa hai chính quyền Hà Nội và Bắc
Kinh đã dứt khoát trở thành thù địch và không thể hòa giải được nữa. Từ lâu Bắc Kinh chỉ nhìn ban lãnh đạo cộng
sản Việt Nam như một bọn phản trắc cần dựa vào họ để tồn tại nhưng trong lòng
vẫn thù ghét họ và có thể trở mặt bất cứ lúc nào. Thực ra họ cũng không lầm lắm. Với những gì Hà Nội
vừa làm, như ra luật biển, vận động để ASEAN có lập trường chung về Biển Ðông,
bật đèn xanh cho các cuộc biểu tình chống Trung Quốc v.v. họ đã đi đến kết luận
là phải gia tăng tối đa và tức khắc áp lực lên Việt Nam, phải lấn chiếm ngay
những gì có thể lấn chiếm được trước khi quá trễ.
Thực tế hiện nay là dù Hà Nội có muốn
tiếp tục qụy lụy với Bắc Kinh để yên thân cũng không được nữa, có van xin họ
cũng không tha. Với tương quan lực lượng quá chênh lệch về hải quân và không
quân giữa hai nước một ngày tình trạng dùng dằng này - căng thẳng với Trung
Quốc nhưng chưa xứng đáng để được các nước dân chủ bênh vực - còn kéo dài là
một ngày hiểm nghèo cho đất nước. Việt Nam chỉ còn một chọn lựa, và
một chọn lựa khẩn cấp : quả quyết tiến tới thế đồng minh với Hoa Kỳ và Châu Âu.
Chọn lựa này
không có rủi ro nào cho Việt Nam. Trước hết là vì Trung Quốc không thể lộng
hành hơn nữa. Họ đã làm tất cả những gì có thể làm mà không sợ gặp một phản ứng
dữ dội của thế giới. Một sự chuyển hướng quả quyết về phía Hoa Kỳ và Châu Âu
chỉ có thể có tác dụng khiến Việt Nam được bảo vệ hơn. Trái với thái độ hung
hăng bề ngoài của họ, Trung Quốc còn rất sợ Hoa Kỳ, và Phương Tây nói chung.
Quân lực của họ còn quá yếu để có thể thách thức thế giới, kinh tế của họ còn
lệ thuộc nặng nề vào các thị trường Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản. Họ đang xung
khắc với nhiều nước và một phong trào bài Trung Quốc cũng đã bắt đầu trên khắp
thế giới. Họ đang gặp khó khăn. Và nếu
họ lấy quyết định trả đũa duy nhất mà họ có thể làm, nghĩa là đoạn giao với
Việt Nam, thì chúng ta sẽ mất gì ? Chúng ta sẽ chỉ mất khoản thâm thủng mậu
dịch 13 tỷ USD với Trung Quốc. Con số này sấp sỉ bằng tổng số thâm thủng ngoại
thương của Việt Nam. Trung Quốc cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Trung Quốc.
Ðiều kiện để Việt Nam tiến tới thế đồng minh với Hoa Kỳ và các nước dân chủ
là Đảng Cộng Sản Việt Nam phải từ bỏ độc quyền chính trị và chấp nhận dân chủ. Ðối với đất nước, đây là một phúc lợi lớn nhưng đối với
đảng cộng sản hậu quả rất có thể là họ sẽ không còn cầm quyền. Chính vì thế mà
cho tới nay họ vẫn cố bám lấy Trung Quốc mặc dầu biết bao nhiêu nhục nhằn và
mất mát cho đất nước. Nhưng tình thế mới là hiện nay họ có muốn tiếp tục bám
vào Trung Quốc cũng không được nữa.
Không ai đủ ngây thơ để tin rằng
những người lãnh đạo cộng sản có thể coi quyền lợi của đất nước quan trọng hơn
quyền lợi của chính họ, nhưng họ chỉ còn một chọn lựa : làm tác nhân hay làm
nạn nhân của tiến trình dân chủ hóa.
No comments:
Post a Comment