11-7-2012
Bỏ mặc vận mệnh của quốc gia để
chăm chút cho bộ lông của mình thêm sặc sỡ, cho cái hang thêm đẹp đẽ - dù có
lương thiện cũng là cái lương thiện của người hèn nhát. Đó là cái lương thiện
của những người Plato muốn ám chỉ trong lời sau: cái giá phải trả của những
người lương thiện mặc kệ chuyện quốc gia đại sự, là nó sẽ bị một bọn gian ác
thống trị...
Những bích họa của Ambrogio
Lorenzetti
Họa sĩ Ý Ambrogio
Lorenzetti vào thế kỉ 14 có vẽ lên tường của công đường Palazzo Pubblico ở
thành phố Siena một số bích họa mà người đời sau gọi là Phúng Họa Chính Trị Tốt
và Chính Trị Xấu. Trên những bích họa ấy, tượng trưng cho chính trị tốt là một
người thống trị quang minh chính đại ngồi trên ngai cao, xung quanh là những
hình tượng biểu thị những đức lành như dũng khí, công chính, đại độ, hòa bình,
nghiêm cẩn, và tiết chế. Đứng trước ngai vàng là một nhóm công dân, liên kết
với người thống trị bằng một sợi dây, biểu tượng cho sự hòa hợp giữa nhà cầm
quyền và công dân. Hoa trái của sự cai trị tốt đẹp này vẽ trên bức bích họa kế
tiếp: ở thành thị trật tự và sung túc nghệ nhân trau chuốt tác phẩm, thương
nhân buôn bán qua lại, người giàu có cưỡi ngựa hoa đi dạo, và thanh niên xúm
nhau lại nhảy múa. Có người đang ra ngoài thành đi săn, lại có người mang lợn
vào phố bán. Ở thôn quê nông dân làm đất và gặt lúa. Ở trên cao bức họa có một
người tượng trưng cho sự An Ninh cầm dải băng viết những dòng này:
“Chừng nào xứ sở
này còn được nữ thần này thống trị thì mọi người đi về tự do mà lòng không mảy
may lo sợ, ai cũng cày bừa và thu hoạch, vì bà đã tước hết quyền lực khỏi tay
kẻ gian ác.”
Bức bích họa ở
tường đối diện tượng trưng cho chính quyền tà ác. Một kẻ cai trị hung ác được
bao quanh là những hình tượng biểu thị thói tham lam, tàn bạo, và ngạo mạn.
Thành phố bị binh lính kiểm soát, còn nông thôn thì tiêu điều và thảo khấu
hoành hành. Đối với hình tượng An Ninh bên kia thì bên này là hình tượng Sợ Hãi
trương dải băng viết những dòng sau:
“Vì ai cũng tranh
lợi cho mình nên trong thành phố này Công Lí bị hạ bệ trước bạo quyền; người
qua lại trên con đường này không ai là không lo mất mạng, vì cổng thành nào
cũng có trộm cướp rình rập.” (i)
Những bức tranh
này vẽ cách đây 700 năm, nhưng nói lên cái bản chất và tác dụng của chính trị
hoàn toàn chính xác. Chính trị lành mạnh thì dân chúng được tự do, đời sống
phong phú, an ninh hơn. Chính trị tàn bạo thì dân chúng bị áp bức đủ mọi bề,
đời sống khốn cùng, công lí bị mất, nhường chỗ cho bạo lực, bất công; và nhà
cầm quyền muốn duy trì quyền lực của mình trên sự đau khổ của đại chúng thì
không còn cách nào khác hơn là dùng sức mạnh và quân đội để trấn áp người dân.
Người Phương Đông chúng ta nói, hà chính mãnh ư hổ, là để chỉ sự khốc hại của
những nền chính trị hà khắc ấy.
Cần chính trị để bảo đảm nhân quyền
Triết gia chính
trị John Locke nói mỗi con người sinh ra đều bình đẳng về ba quyền: quyền bảo
đảm mạng sống, quyền tích trữ của cải riêng, và quyền tự do. Tuyên Ngôn Nhân
Quyền của Liên Hiệp Quốc quy định những quyền tối thiếu ai cũng được hưởng, và
tùy theo tiêu chuẩn của từng xứ sở mà cư dân hưởng được thêm nhiều hay ít quyền
khác, nhưng ba quyền trên là trọng yếu mà nếu thiếu nó, thì không ai sống xứng
với nhân phẩm.
Người công dân làm
sao bảo đảm được những quyền ấy cho mình?
Thử tước đi mọi
định chế của xã hội văn minh, trở về tình trạng cạnh tranh sinh tồn tự nhiên,
thì mạng sống của mỗi người không có gì bảo đảm, của cải họ tích trữ được sẽ là
cái đích cho kẻ khác rình rập. Mỗi người chỉ có thể dựa vào sức mạnh và trí
khôn của mình để sinh tồn, và nếu họ có cộng đồng thì cộng đồng đó phải mạnh
hơn những cộng đồng khác để khỏi bị tiêu diệt. Mọi người trong xứ sở gọi là
quốc gia đó cần một sức mạnh để ngăn những người cạnh tranh khác xâm phạm thân
thể, mạng sống, và của cải của họ.
Trong đời sống
hàng ngày, chúng ta làm giao kèo với nhau, và ai dám tin đối phương sẽ tuân thủ
giao kèo trọn vẹn? Khi họ phá giao kèo thì cứ gì để phạt họ, bắt họ đền bù
thiệt hại? Quốc gia cần những công trình lớn để việc mưu sinh hóa ra thuận tiện
mà sức một nhà, một làng không kham nổi. Cho những công trình chung ấy, ai bảo
đảm mọi người trong quốc gia sẽ đóng góp một cách tương xứng? Và khi đóng góp
rồi thì ai sẽ điều hành việc xây dựng để nó khỏi bị đình trệ hoặc bòn rút? Ai
đứng ra bảo vệ sự công bằng trong giao thiệp hàng ngày của chúng ta? Ai sẽ bảo
đảm sự công bằng trong phân chia tài nguyên quốc gia mà tổ tiên và tự nhiên
trao cho, vì chúng ta không thể để mặc một nhóm người có sức mạnh và phương
tiện độc chiếm tài sản ấy để làm lợi cho họ và tàn phá môi sinh, di hại đến con
cháu chúng ta? Và nếu có ngoại xâm thì chúng ta lấy gì chống đỡ và ai đứng ra
điều hành sự kháng chiến để dân tộc khỏi bị diệt vong?
Rõ ràng là theo
chủ trương vô chính phủ thì xã hội con người có nguy cơ trở lại lối sống tàn
khốc và hỗn loạn của cầm thú. Kiểu quản lí làng xã cũng không thích hợp vì có
những quốc sự lớn lao mà sức một làng không kham nổi.
Công dân cần một
lực lượng đại diện cho ý chí của họ, bảo đảm cho họ nhu yếu sinh tồn và những
quyền trọng yếu. Lực lượng đó là nhà nước và những định chế chính trị: hiến
pháp, pháp luật, chính phủ, cảnh sát, quân đội, và tòa án.
Nhưng chính trị
kiểu gì mới thích hợp cho mục đích tối thượng là bảo vệ và làm thăng hoa con
người?
Khế ước xã hội
Công dân chỉ chấp
nhận trao quyền lực chính trị cho một nhà nước đại diện cho ý chí của họ. Họ
cần một nền chính trị tạo được nhiều hạnh phúc nhất cho nhiều người nhất. Không
ai trao quyền lực cho một nhóm người để họ có phương tiện áp bức mình.
Xét nhu cầu tối
thượng của mỗi người và mục đích thành lập nhà nước như vậy, thì hình thức hợp
lí nhất của nhà nước là một khế ước xã hội. Trong khế ước đó, người dân ủy thác
quyền lực chính trị cho nhà nước, và những người cầm quyền sẽ dùng quyền lực ấy
phục vụ quốc dân theo những nguyên tắc được quốc dân chấp nhận.
Trong khế ước đó
giữa quốc dân và nhà nước, hiển nhiên quốc dân là người làm chủ – quốc dân góp
thuế để trả lương cho lực lượng công quyền, mọi công trình và định chế của quốc
gia đứng được là đều nhờ đóng góp của quốc dân. Nhà cầm quyền muốn chính danh
phải đại diện được cho quốc dân, và phải kham nổi nhiệm vụ bảo đảm tính mạng, của
cải, tự do, và công lí cho công dân. Công dân là chủ khế ước, thì có quyền kiểm
soát sự thực thi quyền lực chính trị. Họ có quyền chất vấn nhà cầm quyền đã sử
dụng những định chế và quyền lực chính trị vào mục đích gì? Có phục vụ nhu yếu
của công dân không không? Của cải quốc gia dùng vào việc gì, làm lợi cho ai?
Nếu nhà nước làm không đúng, hay có những mối ưu tiên khác, thì như mọi giao
kèo khác trong đời sống hàng ngày bị phá vỡ, công dân có quyền ngưng khế ước,
để lập một nhà nước khác hữu hiệu hơn.
Quyền lực chính
trị mà lệch ra ngoài cái mục đích tối thượng ban đầu, thì mọi phục sức bằng
ngôn ngữ, học thuyết đều không bảo đảm được tính chính danh của nhà cầm quyền.
Không có tính chính danh ấy thì khế ước đã bị xé bỏ, quyền lực chính trị chỉ
còn lại là sự áp đặt bằng sức mạnh ý chí và tham vọng của một nhóm người lên
toàn quốc dân.
Đức trị và uy quyền thần thánh của
quốc vương
Ngày xưa,
Lorenzetti cho rằng nhà cầm quyền tốt phải là một bậc quân vương anh minh hội
tụ đủ những đức nhân bản. Plato cách đó hơn ngàn rưỡi năm trong cuốn Republic
cho rằng chính thể lí tưởng nhất sẽ do thánh vương cai trị, vì quốc dân sẽ
hưởng ơn mưa móc từ đức độ và tài năng của quốc vương kiêm triết nhân. Cậy vào
tài trí và đức công chính của nhà lãnh đạo để mang lại công lí và hạnh phúc cho
xứ sở, đó là đức trị. Những oan trái trên công đường của Bao Công có thể kì
vọng ở một kết thúc có hậu, vì cầm cân công lí là một người vô vị lợi, dũng
cảm, và nhân hậu. Trong đức trị, công lí không cần sự bảo đảm của luật pháp, mà
tùy thuộc vào tập tục, ý thức luân lí, và tài trí của người thống trị. Chẳng
may quan tòa là một tham quan như Hòa Thân thì công lí phải hạ bệ cho cái ác
lên ngôi.
Ngày nay, chúng ta
biết rằng đức trị là cả một rủi ro. Giao phó quyền lực vào tay một lãnh tụ là
liều lĩnh, vì tư cách của lãnh tụ rất dễ suy bại trong cái tháp quyền lực. Như
Lord John Acton nói, quyền lực dễ làm cho người ta hư, và quyền lực tập trung
tuyệt đối vào tay một người hay một nhóm người nhất định sẽ suy bại.
Nhưng chính thể
chuyên quyền nào cũng có lí do biện minh cho quyền lực của nó. Ở châu Âu thế kỉ
16, đối phó với quần chúng thách thức quyền lực của hoàng tộc, phái quân chủ
lập nên thuyết uy quyền thần thánh của quốc vương. Thuyết này cho rằng quân
vương, như vua Louis XIV của Pháp, có uy quyền thần thánh riêng, nhận từ tay
Thượng Đế, vì vậy mà không có người, luật, hay hiến pháp nào giới hạn được họ.
Chống lại quân vương tức là cũng chống lại Thượng Đế. Thế quyền gắn với thần
quyền tạo nên những chế độ quân chủ chuyên chế khắc nghiệt. Vì thế mà có những
phong trào phục hưng tôn giáo ở châu Âu tìm cách tách thế quyền đó ra khỏi thần
quyền, và những cuộc cách mạng chống quân chủ ở châu Âu cũng đả kích giáo lí
Công Giáo. Ở những chế độ phong kiến phương Đông, nhà vua có những quyền bất
khả xâm phạm, họ thường xưng là thiên tử, thế thiên hành đạo, cho rằng ý vua
tức ý trời.
Những chính thể
độc tài ngày nay cũng cho rằng uy quyền của nó là tuyệt đối. Nhà cầm quyền
thường biến chính trị thành một lãnh địa riêng của họ, và trong cái lãnh địa
đó, họ mặc sức thao túng quyền lực để thỏa tham vọng của họ. Họ hành xử theo
kiểu ý vua tức ý trời: nghị quyết của đảng là tối thượng mà quốc hội không thể
không phê chuẩn, và họ ngang nhiên viết vào hiến pháp rằng đảng là lực lượng
duy nhất có đủ tư cách lãnh đạo nhà nước.
Vắng bóng pháp
luật, hoặc pháp luật hóa bất lực, quyền lực không có đối trọng, không có kiểm
soát, nên cái mà ban đầu người ta trông mong là đức trị nhường chỗ cho bạo
quyền. Bên ngoài lãnh địa hắc ám đó, người dân bị che lấp mà tin rằng quốc gia
đại sự phải phó thác hết cho chính quyền, tệ hơn nữa là họ tin rằng bước chân
vào lãnh địa chính trị đó là tội ác ghê gớm, có thể trả giá bằng tự do hay cả
mạng sống của mình.
Đức trị đã hóa ra
lỗi thời. Nhân loại đã tìm ra được một triết lí chính trị sáng sủa, dẫn đạo cho
nhiều quốc gia hình thành một nền chính trị minh bạch, xứng hợp với con người
và làm cho đời sống của con người bình đẳng và tự do hơn. Đó là pháp trị.
Pháp trị
Pháp trị là thực
thi chính trị bằng luật lệ và nguyên tắc thành văn. Khái niệm pháp trị đã được
loài người bàn luận từ thời Hi Lạp và La Mã cổ. Aristotle bác lí tưởng đức trị
của Plato, lập luận rằng thánh vương vẫn là con người và dễ bị cảm xúc, tham
vọng và phiến hoặc chi phối. Aristotle cho cai trị bằng luật pháp an toàn hơn,
vì luật được làm ra trong các hội lập pháp khi các nhà lập pháp tỉnh táo nhất.
Qua thời La Mã thì Đế Quốc La Mã đã đưa vào áp dụng trên toàn cõi bộ Luật La
Mã, là bộ luật mà triết gia kiêm nghị sĩ Cicero khen là đã tụ hội đủ lí trí và
minh triết của thánh hiền. Lối pháp trị đó lưu truyền ở phương Tây qua Giáo
Luật của Công Giáo, phổ thông luật pháp (common law) của Anh, và kết tinh trong
luật hiến pháp của Mĩ. (ii)
Theo pháp trị, thì
pháp luật là quyền lực tối cao, những người nắm quyền lực chính trị cao nhất
đều phải chịu phán xét của pháp luật. Pháp trị khiến cho nhà cầm quyền khó lạm
dụng quyền lực, giúp công dân kiểm soát được quyền lực chính trị và cấm chỉ
được nạn chuyên chế.
Một lợi thế khác
của pháp trị là công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bất luận địa vị, danh
tiếng, hay tài sản. Tổng thống hay đại phú gia phạm luật cũng bị trừng phạt như
thường dân, và ta thường thấy nhiều bằng chứng cho nguyên tắc này của pháp trị
tại các nước có pháp trị vững như Anh, Mĩ, Nhật. Không có pháp trị thì cũng
không có công lí, và bằng chứng của hệ lụy này thường có đầy rẫy ở những xứ bị
nạn độc tài hoành hành.
Pháp trị có thể
bảo đảm công lí, nên nhà nước pháp trị không nhất thiết phải có nhiều lãnh đạo
xuất chúng. Ưu điểm này khiến cho pháp trị trở thành yếu tố nền tảng của chính
thể dân chủ và cộng hòa hiện đại.
Một triết lí chính trị nhân bản
Khế ước xã hội,
pháp trị, cùng những định chế kiểm soát quyền lực, là tinh hoa trong triết lí
chính trị của nhân loại. Nó được thử nhiệm, điều chỉnh và ứng dụng trước hết ở
Mĩ, Tây Âu, rồi sau nhờ mang lại hoa trái là thịnh vượng và tự do cho những
quốc gia lựa chọn nó nó mới được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Có lẽ trong giai
đoạn hắc ám này của đất nước, chúng ta phải:
* Dẹp bỏ thói tự
mãn về 4000 năm văn minh của chúng ta, và nhìn thẳng vào thực trạng xã hội và
chấp nhận chúng ta là một nước nhược tiểu lạc hậu trong thế giới hiện đại,
* Gác hết mọi ân
oán và vinh quang hão trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn do xung đột ý thức hệ
gây ra, và tỉnh táo trước những hiểm họa ngoại xâm nó đưa chúng ta tới chỗ nô
lệ hoặc diệt vong, và
* Thoát li những
ảo tưởng về cái gọi là chủ nghĩa xã hội, cùng những thành kiến hẹp hòi về chủ
nghĩa tư bản, về thị trường cạnh tranh tự do, và nhận rằng chính thể cộng hòa
dân chủ và tự do là nền chính trị phổ quát, nó linh hoạt và giúp quốc gia tiến
tới chỗ hưng thịnh mau nhất.
Nền chính trị dân
chủ đó đơn giản chỉ là phương tiện giúp chúng ta thăng hoa được những giá trị
nhân bản, xây dựng một quốc gia tự do, và hưởng một cuộc sống an ninh và sung
túc. Nó không phải là chính thể lí tưởng nhất, nhưng chúng ta dễ tránh được nạn
lạm dụng quyền lực của nhà cầm quyền, và khi nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực
làm phương hại đến quốc gia thì quốc dân còn có phép mà truất phế họ.
Cái tinh hoa của
triết lí chính trị đó là kết tinh của những bộ óc siêu quần sáng lập ra nền
chính trị dân chủ hiện đại. John Locke, Jean Jacques Rousseau, John Stuart
Mill, Thomas Jefferson, Alexander Hamilton – những tổ sư của triết lí chính trị
dân chủ hiện đại đó khi cống hiến tư tưởng cho nhân loại thì cũng không ngoài
mục đích cải thiện cách quản trị quốc gia và làm cho đời sống xã hội của nhân
loại có trật tự và dễ chịu hơn. Họ cống hiến để làm cho xã hội loài người khác
sự hợp quần của súc sinh, chứ không để làm của riêng cho phương Tây. Bàn về
nhân phẩm thì người châu Á, người châu Âu, người châu Phi cũng đều bình đẳng
như nhau, và hạnh phúc thì Đông, Tây hay Phi cũng đều chịu những luật tâm lí và
sinh lí chi phối như nhau. Chỉ có khác biệt về những chỉ số kinh tế-xã hội giữa
các quốc gia mà thôi, nhưng các chỉ số đó cao hay thấp lại do nền chính trị tại
mỗi nước chi phối. Người Việt, người Hàn Quốc, người Nhật, người Trung Hoa, hay
Mĩ, hay người Anh ai cũng mong có giáo dục tốt, có việc làm, có nhà ở, có chăm
sóc y tế, có xe và đường sá đi lại an toàn, có sách đọc, có hòa nhạc, hí kịch,
thể thao để tiêu khiển, có giáo đường và tu viện để thực hành tâm linh. Cho
rằng nền chính trị dân chủ mà phương Tây làm kiểu mẫu đó không thích hợp người
Á Đông để khước từ nó, tìm cách tiêu diệt mầm mống của nó nơi thế hệ trẻ, thì
thật là vô lí.
Chúng ta chọn dân
chủ vì nó hợp thời, hứa hẹn nhiều hạnh phúc nhất cho nhiều người nhất. Nó linh
hoạt, và bền vững, quan trọng hơn hết nó có chỗ cho chúng ta dùng quyền quyết
định kẻ thống trị mình. Quốc gia thịnh vượng hay bần cùng, tự do hay tù túng
đều ở chính trị mà ra, nhưng chính trị đồi bại hay lành mạnh thì dân tộc nào
cũng có thể quyết định.
Những người lương thiện hèn nhát
Chính trị không
phải là đặc quyền của một quốc vương hay của một đảng phái nào. Mỗi công dân
đều có quyền tham chính, cũng như nhà cầm quyền có trách nhiệm sử dụng quyền
lực và của cải của quốc gia theo bản ý của khế ước giữa quốc dân và nhà nước.
Chỉ ở trong những chính thể độc tài người công dân mới bị ma chước của nhà cầm
quyền che lấp, đến mức cho rằng quan tâm chính trị là một việc nguy hiểm. Họ
quên rằng chính trị nói theo ngôn ngữ bình thường là cách quản lí quốc gia cho
tốt đẹp. Bước tới lãnh địa chính trị, nghe người ta dọa “Về nhà đi, mọi sự đã
có đảng lo”, người công dân bắt đầu sợ hãi và đánh mất cả địa vị chủ nhân trên
lãnh địa đó. Nếu người công dân ý thức được địa vị của mình trong khế ước với
nhà nước, thì quyền lực càng áp bức, họ cần phải dấn thân vào chính trị, không
chỉ để thực thi quyền chính trị thôi, mà còn để khai phóng cho những quyền làm
người và quyền làm công dân khác.
Tại sao người công
dân cam chịu cho nhà cầm quyền tùy tiện diễn giải những nhân quyền và dân quyền
tối thiểu mình được hưởng? Chính họ làm chủ khế ước ủy thác quyền lực cho nhà
cầm quyền, chính họ đóng góp để nuôi quân đội và cảnh sát để đổi lại nhà cầm
quyền bảo vệ họ và tài sản của họ. Nhưng nhà cầm quyền đi ngược lại khế ước,
dùng quân đội để cưỡng đoạt đất đai và của cải của họ, coi cảnh sát là thanh
kiếm và lá chắn bảo vệ chế độ, và gieo rắc cho họ sự sợ hãi. Thiếu một nền pháp
trị hiệu quả, nên công lí - đáng lẽ ra phải là trách nhiệm nhà cầm quyền cần
tôn trọng – lắm lúc lại trở thành món quà có điều kiện của kẻ cầm quyền lực
trong tay. Người công dân từ địa vị chủ nhân trở thành những người ăn xin, lần
hồi trước cửa công quyền để được bố thí cho những quyền tự do: đi lại, lập hội,
lập báo, phát biểu chính kiến, viết lách, viết lách mà không phải theo chỉ thị
hay theo tuyên huấn của nhà cầm quyền. Chỉ chừng nào lấy lại được những quyền
tự do cơ bản ấy, người công dân mới mong bảo vệ được nền tự chủ của quốc gia
trong thời tao loạn, không bị bá quyền lân bang ức hiếp, mới mong dân tộc thoát
khỏi thứ hạng chót bẹt trên những bậc thang chỉ số thịnh vượng và văn minh của
nhân loại.
Chính trị không
những là quyền, mà còn là trách nhiệm của công dân. Chính trị lành hay dữ không
phải là chuyện gác ngoài tai. Không thể quay lưng với chính trị, rút vào trong
cái hang của mình, rồi cho rằng mình không liên quan gì tới sự điều hành quốc
gia. Có lẽ sự bỏ mặc chính trị chấp nhận được là của những ẩn sĩ quyết không
dính bén gì với mọi thịnh suy, hưng vong của thế tục. Còn thì bỏ mặc vận mệnh
của quốc gia để chăm chút cho bộ lông của mình thêm sặc sỡ, cho cái hang thêm
đẹp đẽ - dù có lương thiện cũng là cái lương thiện của người hèn nhát. Đó là
cái lương thiện của những người Plato muốn ám chỉ trong lời sau: cái giá
phải trả của những người lương thiện mặc kệ chuyện quốc gia đại sự, là nó sẽ bị
một bọn gian ác thống trị.
__________________________________
Chú thích:
(i) Đoạn diễn giải
những bích họa của Lorenzetti chúng tôi dùng tài liệu của David Miller,
Political Philosophy, A Very Short Introduction, Oxford University Press Inc.,
New York, USA 2003
(ii) Xem Rule of
Law, Garrett Ward Sheldon, Encyclopedia of Political Thought, Facts On File,
Inc. New York, USA 2001.
No comments:
Post a Comment