Mai Thái Lĩnh
Tháng 7 13, 2012
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu đã đề nghị “trở
lại với Hiến pháp 1946”. Đề nghị này đã thật sự trở thành một trào lưu từ giữa
năm 2010, với những bài phát biểu đề cập đến vấn đề sửa đổi hiến pháp của ông
Nguyễn Văn An – cựu ủy viên Bộ Chính trị, cựu Chủ tịch Quốc hội. Do làn sóng
tuyên truyền cổ động đó, rất nhiều người đã đặt niềm tin vào bản hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), coi đó là một văn bản lập
hiến có tính mẫu mực, thậm chí có người còn tin rằng “chỉ cần trở lại với Hiến
pháp 1946 nước ta tất yếu sẽ có dân chủ, tự do”.
Vấn đề đặt ra là: Hiến pháp 1946 có phải là một văn bản lập hiến
thật sự dân chủ như một số người hết lời ca ngợi hay không? Tại sao một bản
hiến pháp được soạn thảo một cách khá vội vã trong tình huống “chính quyền cách
mạng” đang phải đương đầu với những khó khăn trong và ngoài nước và đang chuẩn
bị bước vào một cuộc kháng chiến lâu dài, lại có thể được coi là “một thành tựu
độc đáo về tư tưởng”, “một bản hiến văn dân chủ vào loại bậc nhất Đông Nam Châu
Á lúc bấy giờ”? Làm thế nào mà một bản hiến pháp được soạn trong bối cảnh một
tổ chức chính trị (Việt Minh) gần như khống chế toàn bộ chính trường lại có thể
bảo đảm tính dân chủ đến mức “vẫn còn nguyên giá trị, bởi mỗi câu chữ trong đó
đều vang vọng tiếng dân”?
Nếu so sánh với các bản hiến pháp được soạn thảo sau này dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp 1946 có những ưu điểm rõ rệt. Đó
là một văn bản lập hiến tương đối gần gũi với các bản hiến pháp dân chủ hiện
đại, không áp đặt nguyên tắc “tập trung dân chủ” của Lenin vào hoạt động của
Nhà nước (điều 4 của Hiến pháp 1959) hay xác lập vai trò độc quyền lãnh đạo của
Đảng Cộng sản (điều 4 của các Hiến pháp 1980, 1992). Hiến pháp này cũng nêu rõ
các quyền tự do căn bản mà mỗi công dân đều được hưởng, áp dụng phương thức
trưng cầu dân ý (được gọi là “quyền phúc quyết”), công nhận quyền tư hữu tài
sản, cho phép mở trường tư, không áp đặt mô hình “chủ nghĩa xã hội kiểu
Marx-Lenin”, v.v… Vì đã có nhiều tác giả phân tích khá đầy đủ, trong bài viết
này tôi sẽ không đề cập đến những ưu điểm nói trên mà chỉ tập trung nhấn mạnh
đến một số khuyết điểm nghiêm trọng nhất, căn bản nhất của Hiến pháp 1946 –
liên quan đến việc phân phối quyền lực giữa hai nhánh hành pháp và lập pháp,
khiến cho nó trở thành một văn bản lập hiến không đáng mong ước, không thể đem
áp dụng nguyên si trong tình hình mới. Rất mong các bậc thức giả sẽ có thêm
nhiều bài viết và công trình nghiên cứu để đào sâu, làm rõ thêm những ưu,
khuyết điểm của văn bản lập hiến này.
Để có thể hiểu rõ sự phân phối quyền lực dựa theo Hiến pháp
1946, những phân tích sau đây sẽ bàn về ba thiết chế căn bản làm nên hệ thống
chính trị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH): Chủ tịch nước, Thủ tướng và Nghị viện.
1) Một Chủ tịch nước có quyền lực quá lớn
Một nguyên tắc hết sức quan trọng của chế độ dân chủ hiện đại là
quyền hạn và trách nhiệm phải đi đôi
với nhau một cách tương xứng. Xét một cách tổng quát, Hiến pháp 1946 đã dành
cho Chủ tịch nước một quyền lực rất lớn nhưng lại không quy trách nhiệm chính
trị một cách tương xứng.
Theo các điều khoản ghi trong Hiến pháp, Chủ tịch nước VNDCCH là
người chủ tọa Hội đồng Chính phủ (điều 49, mục d), được quyền chọn Thủ tướng để
Nghị viện biểu quyết (điều 47). Các quyền hạn cụ thể khác được ghi trong điều
49 (thay mặt cho quốc gia, tổng chỉ huy quân đội, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ
tướng và các thành viên Nội các, ban bố các đạo luật đã được Nghị viện thông
qua, đặc xá, ký hiệp ước và bổ nhiệm các quan chức ngoại giao, cùng với Ban
Thường vụ Nghị viện quyết định đình chiến hay tuyên chiến khi Nghị viện không
họp được,…) cho thấy Chủ tịch nước vừa là nguyên
thủ quốc gia (head of state), vừa là người đứng đầu Chính phủ (head of
government). Điều nghịch lý là Chủ tịch nước lại không chịu bất kỳ trách nhiệm chính trị nào:
“Chủ tịch nước ViệtNam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội
phản quốc.” (điều 50)
Trong một bài viết đăng trên tạp chí Tia Sáng (đăng lại trên báo Tuổi trẻ vào năm 2007)
Tiến sĩ Luật học Phạm Duy Nghĩa nhận xét về bản Hiến pháp 1946 như sau: “Người
ta thấy vai trò và quyền lực của Chủ tịch nước rất lớn. Chủ tịch nước theo Hiến
pháp năm 1946 không chịu trách nhiệm trước Quốc hội, không thể bị khởi tố trừ
tội phản quốc, có thể từ chối công bố các đạo luật do Quốc hội ban hành và yêu
cầu Quốc hội thảo luận lại. Vị trí này làm cho người ta liên tưởng đến quyền
lực của tổng thống theo Hiến pháp nước Mỹ hơn là chế độ đại nghị của người
Pháp. Điều này đã giảm đi rất đáng kể trong các bản hiến văn theo mô hình Xô
Viết sau này, Chủ tịch nước chỉ có chức năng nghi lễ mà ít mang tính quyền
lực.” [i]
Nhận xét này có bảo đảm được tính khách quan, khoa học hay chỉ
là một nhận xét nặng về cảm tính và nhiễm màu sắc tuyên truyền? Chúng ta thử
làm một phép so sánh:
* So sánh Chủ tịch nước VNDCCH với Tổng thống Hoa Kỳ
Trước hết, có sự khác biệt rất lớn giữa Chủ tịch nước VNDCCH
theo Hiến pháp 1946 với Tổng thống Hoa Kỳ:
- Tổng thống Hoa Kỳ không chịu trách nhiệm trước Quốc hội vì
không do Quốc hội bầu, trong khi Chủ tịch nước VNDCH do Nghị viện bầu lại không
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Đó là một điều bất hợp lý, không thể được coi
là ưu điểm.
- Tổng thống Hoa Kỳ tuy không chịu trách nhiệm trước Quốc hội
nhưng lại chịu trách nhiệm trước toàn dân. Người dân Mỹ bầu Tổng thống thông
qua một cuộc bầu cử toàn quốc mặc dù bằng phương pháp gián tiếp (cử tri đoàn,
electoral college) và sau mỗi nhiệm kỳ 4 năm, họ có quyền dùng lá phiếu của
mình để thay đổi Tổng thống. Ngược lại, theo Hiến pháp 1946, Nghị viện chỉ có
thể thay đổi Thủ tướng chứ không thể thay đổi Chủ tịch nước, còn người dân cũng
không thể dùng lá phiếu của mình để thay đổi Chủ tịch nước vì chức vụ này không
phải do dân bầu bằng một cuộc tuyển cử toàn quốc. Về mặt lý thuyết, Chủ tịch
nước được chọn từ thành viên của Nghị viện, là đại biểu của một số người dân
thuộc một đơn vị bầu cử và chỉ có số cử tri này mới có thể ảnh hưởng đến kết
quả bầu chọn. Như vậy, trong trường hợp một đảng hay một tổ chức chính trị có
khả năng chi phối Nghị viện trong một thời gian dài, nghĩa là nắm được đa số
hay tuyệt đại đa số trong Nghị viện, Chủ tịch nước có thể được bầu lại với thời
gian vô hạn, được trực
tiếp nắm quyền hành pháp mà không chịu bất kỳ một trách nhiệm chính trị nào cả.
- Mặc dù không thể thay thế Tổng thống này bằng một Tổng thống
khác, Quốc hội Hoa Kỳ (Congress) vẫn có thể cách chức Tổng thống dựa theo thủ
tục “luận tội” (impeachment).[ii] Theo quy định của điều 2
Hiến pháp Hoa Kỳ, Tổng thống có thể bị cách chức vì phạm tội phản bội, nhận hối
lộ hoặc các tội nặng và tội nhẹ nghiêm trọng khác (treason, bribery and other
high crimes and misdemeanors). Quyền luận tội (impeachment) thuộc về Hạ viện
(House of Representatives), quyền kết tội (conviction) thuộc về Thượng viện
(Senate). Hình phạt dành cho Tổng thống bị kết tội là cách chức hoặc nặng hơn
nữa là không được giữ bất kỳ chức vụ công quyền nào trong tương lai. Trong khi
đó, Chủ tịch nước VNDCCH chỉ có thể bị luận tội và kết tội trong một trường hợp
duy nhất: phản quốc.
Vì vậy, có thể nói mặc dù chỉ do Nghị viện bầu chứ không phải do
toàn dân bầu, Chủ tịch nước VNDCCH theo Hiến pháp 1946 có quyền lực lớn hơn so
với tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ trong khi không phải chịu bất kỳ trách nhiệm
chính trị nào cả. Người phải chịu trách nhiệm chính trị thay cho Chủ tịch nước
chính là Thủ tướng.
* So sánh Chủ tịch nước VNDCCH với Tổng thống Pháp dưới chế độ
đại nghị
Điều 50 của Hiến pháp 1946 (VNDCCH) thật ra là một sự bắt chước
quy chế lập hiến dành cho Tổng thống Pháp dưới thời Đệ tam Cộng hòa (Troisième
République) và Đệ tứ Cộng hòa (Quatrième République). Luật lập hiến ngày
25-2-1875 (Loi constitutionnelle du 25 février 1875) có ghi: “Tổng thống nước
Cộng hòa chỉ chịu trách nhiệm trong trường hợp phản quốc.” (điều 6). Điều này
đã được lặp lại trong điều 42 của Hiến pháp 1946 của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp.
Nhưng có sự khác nhau căn bản giữa Chủ tịch nước VNDCCH dựa theo Hiến pháp 1946
và Tổng thống Pháp dưới hai nền Cộng hòa Đệ tam và Đệ tứ: Tổng thống Pháp chỉ
là một nguyên thủ quốc gia không trực tiếp nắm quyền hành pháp (président
non-exécutif, non-excutive president) trong khi Chủ tịch nước VNDCCH lại có
quyền chủ tọa Hội đồng Chính phủ (điều 49, mục d). Nói cách khác, Tổng thống
Pháp dưới chế độ đại nghị chỉ là nguyên thủ quốc gia chứ không phải là người
đứng đầu Chính phủ, trong khi Chủ tịch nước VNDCCH vừa là nguyên thủ quốc gia
vừa là người đứng đầu Chính phủ (tương tự Tổng thống Hoa Kỳ).
Từ năm 1875 cho đến trước năm 1958, nước Pháp là một nước cộng
hòa theo chế độ đại nghị. Tổng thống Pháp chỉ là một chức vụ nặng về nghi lễ
nhưng không có thực quyền, tương tự như một quân vương trong một quốc gia quân
chủ lập hiến theo đại nghị chế (vd: Nữ hoàng Anh). Quyền hành pháp thực tế nằm
trong tay Chủ tịch Hội đồng Nội các (Président du Conseil) – một chức vụ tương
đương với chức Thủ tướng (Premier ministre) sau này. Chủ tịch Hội đồng và Nội
các phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, còn Tổng thống do không trực tiếp
nắm quyền hành pháp nên được “miễn trách nhiệm chính trị”.
Ngược lại, theo Hiến pháp 1946 của nước VNDCCH thì Chủ tịch nước
là nguyên thủ quốc gia trực tiếp nắm quyền hành pháp (président exécutif,
excutive president). Vì vậy, có thể nói quyền lực của nhân vật này lớn hơn rất
nhiều so với Tổng thống Pháp (nguyên thủ quốc gia phi-hành pháp) hoặc Thủ tướng
Pháp (người đứng đầu chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội). Một người nắm
quyền hành pháp lại được miễn hoàn toàn trách nhiệm chính trị là điều hoàn toàn
nghịch lý, vì thế không thể coi là ưu điểm.
Một điều bất hợp lý nữa là: nhiệm kỳ của Nghị viện chỉ có 3 năm,
nhưng Nghị viện lại bầu ra một Chủ tịch nước với nhiệm kỳ 5 năm. Nếu hiểu quyền
lực của Nghị viện là quyền lực do dân ủy nhiệm thì tại sao Nghị viện lại được
quyền bầu một người đứng đầu nhánh hành pháp có nhiệm kỳ gần gấp đôi nhiệm kỳ
của chính mình? Điều này phải chăng là một sự lạm dụng quyền hành của Nghị
viện? Thế nhưng, sự lạm quyền này lại được hợp pháp hóa bằng Hiến pháp.
* Về trách nhiệm chính trị của một nguyên thủ quốc gia nắm quyền
hành pháp
Nhìn một cách khái quát, thể chế chính trị mà Hiến pháp 1946
vạch ra không thể xếp vào một trong hai loại chế độ chính trị kinh điển: chế độ
tổng thống (presidential system, régime présidentiel) kiểu Hoa Kỳ hay chế độ
đại nghị (parliamentary system, régime parlementaire ) kiểu Anh. Chỉ có thể xếp
nó vào loại thứ ba, thường được các nhà chính trị học gọi tên là “chế độ hỗn
hợp” (mixed system), “chế độ lai ghép” (hybrid system), hoặc “chế độ nửa-tổng
thống” (semi-presidential system, régime semi-présidentiel). Đây là một kiểu
chế độ chính trị kết hợp cả những đặc điểm của chế độ tổng thống lẫn của chế độ
đại nghị. Vào năm 1946, mô hình chính trị này còn rất xa lạ đối với thế giới;
nó chỉ mới áp dụng tại một quốc gia duy nhất là Phần Lan (Hiến pháp 1919). Tại
nước Pháp, Tướng De Gaulle đã có ý định áp dụng mô hình này ngay từ sau khi kết
thúc Chiến tranh Thế giới II, như ông đã trình bày qua hai bài diễn văn tại
Bayeux (16-6-1946) và Épinal (29-9-1946). Nhưng vì chưa được sự ủng hộ mạnh mẽ
của công luận, ý định này chưa thể trở thành hiện thực. Dựa theo Hiến pháp ngày
27-10-1946, chế độ chính trị của nước Pháp vẫn là một hệ thống đại nghị.
Ra đời sau Hiến pháp mới của nước Pháp khoảng hai tuần lễ, Hiến
pháp ngày 9-11-1946 có thể là một sự mở đường mang tính sáng tạo của các nhà
lập hiến ViệtNamlúc đó. Nếu thành công, ViệtNamcó thể là quốc gia đầu tiên tại
Đông Nam Á và châu Á xây dựng nên một hệ thống chính trị nửa-tổng thống trước
cả nước Pháp. Đáng tiếc là do ảnh hưởng quá lớn của Việt Minh (một tổ chức biến
tướng của Đảng Cộng sản), các nhà lập hiến đã đưa vào đây một số yếu tố phi-dân
chủ, làm giảm giá trị của bản Hiến pháp.
Để có thể đánh giá đúng bản Hiến pháp 1946, chúng ta phải so
sánh nó với các bản hiến pháp đã được áp dụng trong thực tế và đứng vững qua
thời gian. Trong phạm vi của bài này, tôi sẽ so sánh nó với Hiến pháp Phần Lan
năm 1919 và Hiến pháp 1958 của nước Pháp, được coi là hai bản hiến pháp có giá
trị tiêu biểu của mô hình chính trị hỗn hợp (nửa-tổng thống) trên thế giới.[iii]
Nếu so sánh với trường hợp của Phần Lan trước năm 2000 và Pháp
từ năm 1958, chúng ta thấy điều 50 nói trên vẫn có thể áp dụng được với điều
kiện chức vụ Chủ tịch nước Việt Nam (hoặc Tổng thống Việt Nam) phải do toàn dân bầu. Vị Chủ
tịch nước (hay Tổng thống) này sẽ vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng
đầu Chính phủ.
Trong thực tế của Phần Lan, từ 1919 đến năm 1988, trừ vài trường
hợp ngoại lệ (vd: do hoàn cảnh chiến tranh), Tổng thống được toàn dân bầu theo
một phương thức gián tiếp – thông qua một cử tri đoàn (electoral college) gồm
300 đại cử tri (từ 1981: 301 đại cử tri). Các đại cử tri này được dân bầu với
một mục đích duy nhất là bầu chọn Tổng thống nước Cộng hòa (khác với các đại cử
tri ở Hoa Kỳ, họ không bị buộc phải cam kết bầu cho một ứng cử viên nào). Sau
khi thử nghiệm một phương thức bầu cử kết hợp giữa bầu cử trực tiếp và bầu cử
gián tiếp trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1988, kể từ năm 1994, Tổng thống
Phần Lan được toàn dân bầu bởi một cuộc bầu phiếu trực tiếp gồm hai vòng.
Tại Pháp, dưới thời Đệ ngũ Cộng hòa, chỉ trừ trường hợp đầu tiên
là Tổng thống De Gaulle được bầu bởi một cử tri đoàn, từ năm 1962 trở đi tất cả
các Tổng thống Pháp đều được bầu trực tiếp thông qua một phương thức bầu cử gồm
hai vòng. Nếu trong vòng thứ nhất, không ứng cử viên nào đạt số phiếu quá bán thì
hai ứng cử viên đạt số phiếu cao nhất sẽ tranh cử trong vòng thứ hai; lần này
ai đạt số phiếu cao hơn sẽ trúng cử.
Một khi quyền lực của Chủ tịch nước (hay Tổng thống) là do toàn
dân trao cho thì việc miễn trách nhiệm chính trị có thể được coi là hợp lý. Ý
nghĩa thật sự của nguyên tắc đó là: quyền
lực do toàn dân trao thì chỉ có toàn dân mới có quyền thu hồi để trao cho một
người khác. Vị nguyên thủ quốc gia trực tiếp nắm quyền hành pháp
này không chịu trách nhiệm chính trị trước Nghị viện hay Quốc hội mà chịu trách
nhiệm trước toàn dân, và người dân có quyền thay đổi người nắm giữ chức vụ này
thông qua một cuộc bầu cử trên quy mô toàn quốc.
Cũng cần nói thêm về trách nhiệm chính trị và pháp lý của Tổng
thống Pháp hiện nay. Kể từ sau cuộc cải cách hiến pháp năm 2007, Tổng thống
Pháp vẫn được miễn trách nhiệm chính trị trong khi thực hiện nhiệm vụ, nhưng có
hai trường hợp ngoại lệ: (1) bị khởi tố bởi Tòa án Hình sự Quốc tế về các tội
ác chống nhân loại (điều 53-2), hoặc (2) bị áp dụng thủ tục luận tội “trong trường
hợp có thiếu sót về bổn phận, rõ ràng là không thích hợp với việc thực hiện
nhiệm vụ được giao” (điều 68). Trong trường hợp thứ hai, Tổng thống sẽ bị đưa
ra xét xử trước Tòa án Cao cấp (Haute Cour) – gồm cả hai viện của Nghị viện họp
chung, và biện pháp trừng phạt là cách chức. Đối với những hành vi của Tổng
thống không liên quan đến việc thực hành các chức năng của nguyên thủ quốc gia,
Tổng thống được hưởng quyền “bất khả xâm phạm” (inviolabilité) bao gồm cả các
lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính trong suốt thời gian của nhiệm kỳ.[iv] Nhưng quyền đặc miễn
(immunité) này chỉ có tính chất tạm thời, vì các thủ tục điều tra, thẩm vấn,
khởi tố được phép tiến hành sau một tháng kể từ khi chấm dứt nhiệm kỳ tổng
thống. Ngày 15-12-2011, cựu Tổng thống Jacques Chirac (nhiệm kỳ 1995-2002 và
2002-2007) đã bị Tòa ánParis kết án hai năm tù treo vì tội biển thủ công quỹ,
lạm dụng lòng tin của công chúng trong thời gian làm Thị trưởngParis
(1977-1995). Đây là lần đầu tiên một cựu Tổng thống của nền Đệ ngũ Cộng hòa –
một nhân vật vừa là biểu tượng của quốc gia vừa nắm thực quyền, bị truy tố và
kết án tại một Tòa án hình sự. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của một giai
đoạn trong đó nguyên thủ quốc gia là một nhân vật chính trị gần như “bất khả
xâm phạm”.
2) Một Thủ tướng và Nội các không có thực quyền
Trong một chế độ hỗn hợp (nửa-tổng thống), Tổng thống tuy nắm
quyền hành pháp nhưng không nắm trọn vẹn như Tổng thống Hoa Kỳ mà phải chia sẻ
quyền này với một Nội các – đứng đầu là một Thủ tướng. Nội các chịu trách nhiệm
chính trị trước Nghị viện và có thể bị Nghị viện biểu quyết bất tín nhiệm bất
cứ lúc nào. Các nhà chính trị học gọi đó là quyền hành pháp có hai đầu
(bicephalous executive, exécutif bicéphal).
Chúng ta có thể lấy ví dụ từ Phần Lan. Để buộc Tổng thống phải
chia sẻ quyền lực cho Thủ tướng và Nội các, Hiến pháp 1919 của Phần Lan quy
định các hành động của Tổng thống phải được thực hiện thông qua Hội đồng Nhà
nước: “Quyền hành pháp tối cao được trao cho Tổng thống nước Cộng hòa. Thêm vào
đó, để lãnh đạo Nhà nước một cách tổng quát, sẽ có một Hội đồng Nhà nước bao
gồm Thủ tướng và một số lượng cần thiết các bộ trưởng. ” (điều 2).
Hội đồng Nhà nước (Council
of State, valtioneuvosto, tức Nội các) chịu trách nhiệm trước Nghị
viện, vì vậy họ có trách nhiệm kiềm chế các hoạt động của Tổng thống. Nhà nghiên
cứu Eric Solsten giải thích phương thức kiềm chế này như sau:
“Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm pháp lý về những hành động
của các bộ trưởng, dựa theo Đạo
luật về Trách nhiệm của các bộ trưởng năm 1922 (the Responsibility of Ministers
Act of 1922). Ngoài việc buộc các bộ trưởng phải giải trình các
hành động chính thức của họ, đạo luật có giá trị lập hiến này cũng là một
phương pháp quan trọng – mặc dù là gián tiếp, nhằm kiểm soát các hành động của
tổng thống. Bởi vì các quyết định của tổng thống chỉ có thể được thực hiện
thông qua Hội đồng Nhà nước, các bộ trưởng chấp thuận một hành động bất hợp
pháp của tổng thống sẽ chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của đạo luật này.
Các bộ trưởng muốn tránh sự trừng phạt của luật pháp phải từ chối tham gia một
quyết định của tổng thống mà họ thấy là không phù hợp với luật pháp. Nếu thiếu
sự đồng ý của bộ, tổng thống không thể hành động. Trong trường hợp đó, tổng
thống phải tuân thủ quyết định của hội đồng, hoặc có thể giải tán hội đồng và
chuẩn bị thành lập một hội đồng mới phục tùng ý muốn của mình. Nếu điều này
cũng bất khả thi, ông ta có thể giải tán Nghị viện và kêu gọi một kỳ bầu cử mới
với hy vọng cử tri sẽ ủng hộ quyết định của mình bằng cách bầu ra một Nghị viện
từ đó có thể thành lập một chính phủ có xu hướng phục tùng. Nếu hội đồng từ
chối chấp thuận một quyết định hợp pháp của tổng thống, nó buộc phải từ chức.
Các bộ trưởng có thể từ chức với tư cách cá nhân, nhưng việc từ chức của thủ
tướng có nghĩa là chính phủ chấm dứt nhiệm vụ.”[v]
Việc liên đới chịu trách nhiệm giữa Tổng thống và Hội đồng Nhà
nước thể hiện rất rõ trong thủ tục tiếp
ký (countersignature, contre-signature). Theo định nghĩa, tiếp ký (hay phó thự) có nghĩa là “ký
vào một văn bản đã được ký bởi một người khác”.[vi]
Điều 34 của Hiến pháp Phần Lan 1919 quy định: “(1) Tổng thống sẽ
thực hiện các quyết định của mình trong Hội đồng Nhà nước trên cơ sở một bản đệ
trình của Bộ trưởng có thẩm quyền. (2) Để trở thành có hiệu lực, các quyết định
của tổng thống sẽ được ký bởi Tổng thống và được tiếp ký bởi Bộ trưởng đệ
trình. (…) (3) Nếu một quyết định của tổng thống liên quan đến toàn bộ Hội đồng
Nhà nước, nó sẽ được tiếp ký bởi một viên chức có thẩm quyền của Hội đồng Nhà
nước. (4) Việc đệ trình những vấn đề chỉ huy quân sự hay bổ nhiệm các chức vụ
quân sự và việc tiếp ký các quyết định của tổng thống về các vấn đề này sẽ được
chỉ đạo bởi các điều khoản riêng. (5) Người nào tiếp ký một quyết định của tổng
thống sẽ chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của tài liệu chứa đựng quyết định
vừa kể.”
Điều 35 quy định rõ: “Nếu một Bộ trưởng phát hiện thấy một quyết
định của tổng thống trái với luật pháp, đương sự sẽ thông báo cho Hội đồng Nhà
nước ý kiến của mình, điều này sẽ tiến hành theo quy định trong điều 45. Nếu
quyết định trái với một Đạo luật lập hiến, Bộ trưởng sẽ buộc phải từ chối tiếp
ký vào nó.” [vii] (Đạo luật lập hiến –
constitutional act, là một đạo luật có giá trị ngang với hiến pháp).
Như vậy, để có thể kiềm chế được vai trò của Tổng thống, các bộ
trưởng phải có khả năng “từ chối” các yêu cầu sai trái của Tổng thống. Mặt
khác, Thủ tướng – người đứng đầu Nội các, phải có đầy đủ quyền hạn để có thể
nhận trách nhiệm trước Nghị viện về việc điều hành Nội các và bộ máy hành
chính.
Trở lại với bản Hiến pháp 1946 của VNDCCH, chúng ta thấy các nhà
soạn thảo Hiến pháp cũng đã nghĩ đến phương pháp ràng buộc Chủ tịch nước với
các thành viên khác trong Nội các (Hội đồng Chính phủ) bằng thủ tục tiếp ký
(phó thự). Điều thứ 53 của Hiến pháp 1946 quy định: “Mỗi sắc lệnh của Chính phủ
phải có chữ ký của Chủ tịch nước ViệtNamvà tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có
một hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải chịu trách nhiệm
trước Nghị viện.”
Ngoài ra, còn có điều thứ 54 nói về trách nhiệm của các bộ
trưởng và Thủ tướng: “Bộ trưởng nào không được Nghị viên tín nhiệm thì phải từ
chức. Toàn thể Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về hành vi một Bộ
trưởng. Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các.
Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban
thường vụ hoặc một phần tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra. Trong hạn 24 giờ
sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước
ViệtNamcó quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận
lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. Sau cuộc biểu
quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ chức.”
Rõ ràng là các nhà soạn thảo Hiến pháp 1946 có ý định áp dụng
nguyên tắc của đại nghị chế “Nội các chịu trách nhiệm chính trị trước Nghị
viện”, và đã tìm cách ràng buộc trách nhiệm của Chủ tịch nước với trách nhiệm
của Thủ tướng và Nội các thông qua thủ tục tiếp ký. Tuy nhiên, nếu so sánh với
Hiến pháp Phần Lan 1919 và Hiến pháp Pháp 1958, chúng ta thấy quyền hạn của Thủ
tướng không tương xứng với trách nhiệm được giao:
Căn cứ vào điều 44: “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ
trưởng. Có thể có Phó thủ tướng.” Điều 52 ghi rõ các quyền hạn của Chính phủ:
Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện, đề nghị các dự án sắc luật,
bổ nhiệm hay cách chức các nhân viên hành chính hoặc chuyên môn, lập dự án ngân
sách hàng năm, v.v… Thế nhưng, căn cứ vào điều 49, “Chủ tọa Hội đồng Chính phủ”
lại thuộc quyền hạn của Chủ tịch nước chứ không phải của Thủ tướng. Và khi cần
phải “tạm quyền Chủ tịch” trong trường hợp Chủ tịch nước từ trần hay từ chức
thì người tạm quyền lại là Phó Chủ tịch – một người “chọn trong nhân dân và bầu
theo lệ thường”. Vì không phải là người được chọn trong Nghị viện, cũng không
phải là người có quyền chọn các bộ trưởng, cho nên Phó Chủ tịch đương nhiên
không chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Trong khi đó, điều 54 lại ghi: “Thủ
tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các”.
Chúng ta thấy rõ một điều nghịch lý: cả Chủ tịch nước lẫn Phó
Chủ tịch nước đều do Nghị viện bầu, được quyền chủ tọa Hội đồng Chính phủ nhưng
lại không chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Ngược lại, Thủ tướng là người giới
thiệu các thành viên của Nội các, phải “chịu trách nhiệm trước Nghị viện về
đường lối chính trị của Nội các” nhưng lại không có quyền chủ tọa Hội đồng
Chính phủ. Với cách bố trí, sắp xếp như thế, Thủ tướng trong thực tế chỉ là
“người giúp việc” cho Chủ tịch nước, chứ không thể chia sẻ quyền lực với Chủ
tịch nước.
Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta có thể so sánh với Thủ tướng
Phần Lan (trước năm 2000) và Thủ tướng Pháp (từ 1958 đến nay):
Tại Phần Lan, Hiến pháp 1919 ghi rõ: “Thủ tướng sẽ phục vụ với
tư cách là chủ tọa của Hội đồng Nhà nước” (Điều 39-1). Mặt khác, Hiến pháp cũng
quy định: trong trường hợp Tổng thống gặp trở ngại không thể tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ của mình thì Thủ tướng chính là nhân vật hàng đầu có quyền thay thế
Tổng thống, với điều kiện Thủ tướng không được phép tham gia các công việc của
Nghị viện (điều 25). Với cách sắp xếp như vậy, Hội đồng Nhà nước (tức Chính phủ Phần Lan) được đặt
dưới quyền điều hành của Thủ tướng. Thủ tướng chủ trì các công việc
của Nội các trước khi đệ trình lên Tổng thống để ra quyết định. Thông thường,
Hội đồng Nhà nước họp biểu quyết vào ngày thứ năm hàng tuần dưới sự chủ tọa của
Thủ tướng để ngày thứ sáu đệ trình các vấn đề đã bàn cãi lên Tổng thống trong cuộc
họp với Tổng thống (Presidential Meeting).
Hiến pháp 1958 của nước Pháp giải quyết vấn đề theo một cách
khác. Theo quy định của điều 9, Tổng thống nước Cộng hòa chủ tọa Hội đồng bộ
trưởng (Conseil des ministres). Thế nhưng, điều 21 lại ghi rõ: “Thủ tướng điều
khiển hành động của Chính phủ.”[viii] Với những quy định đó, Thủ tướng Pháp điều hành tất cả các
công việc của Chính phủ (Gouvernement) còn Tổng thống Pháp kiểm soát và định
hướng công việc của Chính phủ thông qua một thiết chế được gọi là “Hội đồng bộ
trưởng” (Conseil des ministres), thường họp vào ngày thứ tư hàng
tuần tại điện Élysée dưới sự chủ tọa của Tổng thống. Mặt khác, trong trường hợp
Tổng thống Pháp bị ngăn trở không thực hiện được nhiệm vụ của mình, thì người
đầu tiên được chỉ định để tạm quyền xử lý các nhiệm vụ của Tổng thống là Chủ
tịch Thượng viện, người kế tiếp là Thủ tướng Pháp.
Trong thực tế, sự chia sẻ quyền hành giữa Tổng thống và Thủ
tướng tại Pháp thể hiện rất rõ qua hai trường hợp khác nhau. Nếu Tổng thống và
Thủ tướng thuộc cùng một đảng hoặc liên minh chính trị thì quyền lực của Tổng
thống rất lớn, và lúc đó quyền lực của Thủ tướng bị lệ thuộc rất nhiều vào
quyền lực của Tổng thống. Ngược lại, trong những giai đoạn Tổng thống và Thủ
tướng thuộc hai đảng hay hai liên minh chính trị khác nhau, quyền hành của Tổng
thống bị hạn chế rất nhiều do phải chia sẻ quyền lực cho Thủ tướng (người nắm
khối đa số tại Quốc hội – tức Hạ viện). Người ta gọi đó là giai đoạn sống chung (cohabitation), như các
giai đoạn: Mitterrand-Chirac (1986-1988), Mitterrand-Balladur (1993-1995),
Chirac-Jospin (1997-2002).
Tại Phần Lan, Tổng thống là người được xem như trung tâm đoàn kết
của quốc gia, vì vậy mỗi nhân vật đảm nhiệm chức vụ Tổng thống phải tạm thời từ
bỏ các hoạt động đảng phái trong suốt nhiệm kỳ. Mặt khác, do tình trạng các
đảng chính trị phân tán hơn so với ở Pháp, để thành lập chính phủ thường phải
có sự đàm phán giữa một số đảng chính trị có xu hướng gần nhau hoặc thậm chí
khác nhau. Vì vậy Thủ tướng và chính phủ thường xuyên thay đổi trong khi Tổng
thống là nhân tố bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Tổng thống được
giao quyền trong một số lĩnh vực quan trọng như an ninh quốc gia và quan hệ
quốc tế, còn Thủ tướng chịu trách nhiệm về lĩnh vực nội trị và các công việc
thông thường. Đó là đặc điểm chung của thể chế chính trị tại Phần Lan từ 1919
cho đến tận năm 2000.
Tóm lại, kể cả ở Pháp lẫn ở Phần Lan, Thủ tướng là người điều
hành Nội các và bộ máy hành chính. Quyền hành pháp được chia sẻ giữa Tổng thống
và Thủ tướng, không cần đến một nhân vật thứ ba (Phó Tổng thống). Trong khi đó,
nếu dựa theo Hiến pháp 1946 của VNDCCH, Thủ tướng chỉ thuần túy là “người giúp
việc” cho Chủ tịch nước nhưng lại phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Rõ
ràng đây là một sự phân bổ quyền lực bất hợp lý, vô hiệu hóa hoàn toàn động cơ
vận hành chủ yếu của chế độ đại nghị.
Cũng cần nói thêm là trong chế độ đại nghị cũng như chế độ hỗn hợp,
Nghị viện có quyền biểu quyết bất tín nhiệm Thủ tướng và Nội các nhưng ngược
lại, Thủ tướng cũng có quyền “kêu gọi toàn dân” bằng cách đề nghị Tổng thống
giải tán Nghị viện, tiến hành một cuộc tổng tuyển cử để bầu ra một Nghị viện
mới. Kết quả của cuộc tổng tuyển cử mới sẽ là thước đo sự tín nhiệm của nhân
dân, qua đó sẽ xác định ai là người có đủ uy tín để đảm nhận chức vụ Thủ tướng.
Xem lại Hiến pháp 1946, chúng ta chỉ thấy khả năng Thủ tướng từ chức vì bị Nghị
viện bất tín nhiệm, nhưng lại không thấy trường hợp Chủ tịch nước giải tán Nghị
viện theo đề nghị của Thủ tướng. Điều kỳ lạ hơn nữa là trong khi không quy định
trường hợp “giải tán Nghị viện”, bản Hiến pháp này lại dự kiến một trường hợp
“Nghị viện tự giải tán” (điều 33). Quy định này có lẽ thuộc loại “không giống
ai” so với hiến pháp của các quốc gia dân chủ lâu đời trên thế giới.
3. Một Nghị viện bị tước đoạt quyền lực
Như trên đã thấy, bí quyết thành công của hệ thống hỗn hợp là:
Tổng thống do dân bầu là nguyên thủ quốc gia nắm quyền hành pháp, nhưng phải
chia sẻ quyền này với một Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Vì vậy,
sức mạnh của Nghị viện là một đối trọng hết sức cần thiết để làm cân bằng quyền
lực giữa hành pháp và lập pháp. Một Nghị viện yếu kém hoặc chịu sự khống chế
của Tổng thống sẽ trở thành “công cụ” trong tay một nhánh hành pháp chuyên
quyền, dễ dàng dẫn đến một chế độ độc tài, chuyên chế.
Căn cứ vào các điều khoản ghi trong Hiến pháp 1946, chúng ta
thấy một Nghị viện sinh ra từ đây không thể bảo đảm đầy đủ các đặc điểm của một
cơ quan dân cử có thực quyền:
1) Hiến pháp cho phép các quân nhân tại ngũ được tham gia Nghị
viện: “Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.” (điều 18). Điều này
cho thấy bản Hiến pháp 1946 là một bản “hiến pháp của thời chiến”, một bản hiến
pháp sinh ra từ một hoàn cảnh “bất bình thường”. Nếu bản hiến pháp này được áp
dụng trong thời bình, Nghị viện rất dễ trở thành một cơ quan lập pháp mà quân
đội hay một tổ chức chính trị nắm được quân đội sẽ chiếm phần ưu thế (tương tự
như ở Ai Cập hay Miến Điện hiện nay).
Hãy so sánh với Phần Lan – một đất nước đã từng xảy ra nội chiến
vào năm 1918. Mặc dù Phe Trắng giành thắng lợi trong cuộc nội chiến, dập tắt
cuộc cách mạng do Phe Đỏ (cộng sản) khởi xướng, thế nhưng bản Hiến pháp năm
1919 đã không dựng lên một chế độ độc tài mà đặt nền móng cho một chế độ dân
chủ đa đảng. Đạo luật về
Nghị viện năm 1928 (một đạo luật lập hiến) quy định: “Tuy nhiên,
một người lính không thể được bầu làm đại biểu, trừ trường hợp một người đang
phục vụ trong thời gian quân dịch.” (điều 7-2). Quy định này cũng được tiếp tục
ghi vào Hiến pháp mới năm 2000 của Phần Lan: “Tuy nhiên, một người đang giữ một
chức vụ quân sự không thể được bầu làm đại biểu.” (điều 27). Nói cách khác, một
người dân thường đang tham gia quân dịch (tức nghĩa vụ quân sự) có thể trở thành một nghị
sĩ mà không gặp trở ngại, nhưng một quân nhân chuyên nghiệp muốn trở thành nghị
sĩ buộc phải rời bỏ quân đội.
Việc các quân nhân tại ngũ được phép ngồi trong cơ quan lập pháp
thật ra là tập quán của tất cả các “Quốc hội” dưới chế độ cộng sản trên toàn
thế giới. Điều này bắt nguồn từ quan niệm của Lenin về “Xô-viết công nông binh”
mà ông cho là ưu việt hơn, dân chủ hơn so với Nghị viện đại diện cho toàn dân.
Trong lịch sử, Lenin chính là người đã sử dụng vũ lực để giải tán Quốc hội lập
hiến (Duma) tại Nga vào năm 1917, giành quyền lực về cho Xô-viết Nga.[ix]
Nhưng không phải chỉ có quân nhân tại ngũ. Ngày nay, nhìn vào
Quốc hội của các nước cộng sản còn lại (như Việt Nam, Trung Quốc), chúng ta
thấy có rất nhiều “đại biểu nhân dân” kiêm nhiệm các chức vụ hành pháp ở Trung
ương và địa phương, xen lẫn cả một loạt các quan chức thuộc quân đội, công an
và cả các quan chức của Tòa án, Viện kiểm sát, v.v… Sự lẫn lộn này khiến cho
Quốc hội ở các nước này trở thành một tập hợp hỗn độn các quan chức đủ mọi
ngành, không phân biệt giữa lập pháp, tư pháp và hành pháp. Mục đích cuối cùng
của sự nhập nhằng, lẫn lộn này là tạo điều kiện để bộ máy hành pháp khống chế
cơ quan lập pháp dân cử, và nhằm mục đích cuối cùng là “bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng” đối với Quốc hội.
Nếu nhìn vào thực tế của các quốc gia áp dụng thành công mô hình
đại nghị hay mô hình hỗn hợp (nửa-tổng thống) – tức là các quốc gia không tách
rời hoàn toàn hai nhánh lập pháp và hành pháp như chế độ tổng thống kiểu Hoa
Kỳ, chúng ta thấy Nghị viện hay Quốc hội đều có những quy định buộc các đại
biểu nhân dân không được phép kiêm nhiệm một số chức vụ thuộc hai nhánh hành
pháp và tư pháp.
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh (United Kingdom)[x], mặc dù Thủ tướng và các
thành viên của Nội các đồng thời là thành viên của Nghị viện, nhưng có những
quy định cụ thể về những chức vụ hành pháp và tư pháp không được ứng cử vào
Viện Thứ dân (Hạ viện), được ghi trong Đạo
luật tước bỏ quyền ứng cử vào Viện Thứ dân năm 1975 (The House of Commons Disqualification
Act 1975).[xi] Trong danh sách những chức
vụ và nghề nghiệp không được quyền ứng cử vào Hạ viện, chúng ta thấy có: (1)
một số chức vụ trong ngành Tòa án bao gồm cả Tòa Thượng thẩm (High Court)[xii] và Tòa Phúc thẩm (Court of
Appeal), (2) các công chức toàn thời gian hay bán thời gian, (3) các sĩ quan
cảnh sát toàn thời gian, (4) các thành viên của lực lượng vũ trang thường trực,
v.v…[xiii]
Tại Pháp, một quốc gia thường cho phép kiêm nhiệm nhiều chức vụ,
có những quy định cụ thể xác định tính tương khắc (incompatibilité) của một số
chức vụ mà những dân biểu (député, tức thành viên của Hạ viện) và thượng nghị
sĩ (sénateur, tức thành viên của Thượng viện) không được phép kiêm nhiệm. Đối
với ngành tư pháp, các nghị sĩ không thể đồng thời là thẩm phán, là thành viên
của Hội đồng thẩm phán tối cao (Conseil supérieur de la magistrature) – một
thiết chế có vai trò bảo đảm tính độc lập của các thẩm phán đối với quyền lực
hành pháp. Đối với nhánh hành pháp, nguyên tắc chung là các nghị sĩ không được
kiêm nhiệm các chức vụ
công quyền không do bầu cử (fonctions publiques non électives);
những công chức rơi vào tình trạng đó buộc phải chuyển công tác (trừ một số
trường hợp ngoại lệ thuộc lĩnh vực giáo dục đại học). Chẳng những không thể
đồng thời là công chức, các thành viên của Nghị viện còn bị cấm kiêm nhiệm các
chức vụ lãnh đạo hay quản lý trong các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, trong
một số hiệp hội hay xí nghiệp tư nhân được hưởng các ưu đãi của Nhà nước hay lệ
thuộc vào Nhà nước, v.v… Khác với nước Anh và nhiều quốc gia theo chế độ đại
nghị, tại Pháp dưới thời Đệ ngũ Cộng hòa, thành viên của Chính phủ không được
kiêm nhiệm chức vụ dân biểu hay thượng nghị sĩ. Trong thời gian tham gia Chính
phủ, những vị này phải giao nhiệm vụ đại biểu nhân dân cho một người khác thay
thế.[xiv]
Sự khác nhau giữa việc tước bỏ quyền ứng cử (disqualification) ở
Anh và tính tương khắc (incompatibilité) ở Pháp là ở chỗ: người bị tước bỏ
quyền ứng cử không được phép ứng cử, còn người ở vào hoàn cảnh “tương khắc” vẫn
có thể ứng cử, nhưng sau khi trúng cử buộc phải chọn lựa giữa nhiệm vụ đại biểu
nhân dân và chức vụ bổ nhiệm trước đó. Những quy định về việc tước bỏ quyền ứng
cử hay về tính tương khắc chính là sự vận dụng nguyên tắc “tam quyền phân lập”
nhằm bảo đảm cho các nghị sĩ tránh được áp lực từ bên ngoài cũng như tránh được
các xung đột về lợi ích. Tất cả nhằm mục đích giữ vững tính độc lập, không
thiên vị của các đại biểu nhân dân trong quá trình làm luật cũng như bảo đảm được
vai trò kiểm tra, giám sát của họ đối với bộ máy hành pháp.
2) Điều kỳ lạ nhất của Nghị viện theo Hiến pháp 1946 là quy định
“Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân” (điều
45) và không có quy định nào buộc Chủ tịch nước phải từ bỏ vai trò nghị viên (tức nghị sĩ).
Trường hợp một nguyên thủ quốc gia được quyền tham gia vào Nghị
viện với tư cách “đại biểu của dân” là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với các
nước dân chủ phương Tây. Trong chế độ tổng thống kiểu Hoa Kỳ, Tổng thống đương
nhiên không thể là thành viên của Quốc hội, vì hành pháp và lập pháp hoàn toàn
tách rời nhau. Trong chế độ đại nghị, nguyên thủ quốc gia (vd: Nữ hoàng Anh hay
Tổng thống Đức) không tham gia Nghị viện, vì quyền hành pháp được giao cho Thủ
tướng, quyền lập pháp được giao cho Nghị viện. Trong trường hợp có mâu thuẫn
giữa Thủ tướng và Nghị viện, nguyên thủ quốc gia là người đứng giữa làm trọng
tài, chọn lựa một trong hai giải pháp: hoặc chấp nhận đơn từ chức của Thủ tướng
và mời người khác lập Chính phủ, hoặc giải tán Nghị viện để tiến hành tổng
tuyển cử bầu một Nghị viện mới. Trong thực tế, các vị nguyên thủ quốc gia này
thường chỉ xuất hiện tại Nghị viện trong những trường hợp hiếm hoi, như để khai
mạc hoặc bế mạc các kỳ họp hàng năm chẳng hạn. Trong chế độ hỗn hợp, Tổng thống
cũng không thể tham gia Nghị viện. Đạo
luật Nghị viện năm 1928 của Phần Lan quy định: “Nếu một đại biểu
được bầu vào chức vụ Tổng thống nước Cộng hòa, nhiệm kỳ nghị viện của ông ta sẽ
hết hiệu lực đúng vào ngày ông ta nhậm chức Tổng thống. Tuy nhiên, ngay sau khi
được bầu, ông ta không thể tham gia vào công việc của nghị viện.” (điều 8 – 2).
Điều này đã được đưa vào Hiến pháp mới năm 2000 (điều 27). Chẳng những Tổng
thống không được kiêm nhiệm chức vụ nghị sĩ mà ngay cả những người tạm thời xử
lý nhiệm vụ của Tổng thống cũng không thể tham gia công việc của Nghị viện
trong thời gian tạm quyền. Tại Pháp, mặc dù không ghi vào Hiến pháp, nhưng có
một quy định bất thành văn vẫn được áp dụng từ trước đến nay: Tổng thống không
được kiêm nhiệm bất cứ chức vụ nào trong cả hai viện của Nghị viện.[xv]
Mặc dù là một hiện tượng xa lạ với các nền dân chủ hiện đại, việc
những nhân vật như Chủ tịch nước hay Tổng Bí thư Đảng ngồi tại các Quốc hội
cộng sản (như Trung Quốc, Việt Nam) lại là một thông lệ, không có gì cần bàn
cãi, vì nguyên tắc “tập trung dân chủ” được áp dụng thay cho nguyên tắc “tam
quyền phân lập”. Tập trung tất cả các quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp
vào một đầu mối chính là cách tốt nhất để chuyển các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng thành các quyết định
của Nhà nước. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các Tổng Bí thư của Đảng
Cộng sản Việt Nam – từ Nông Đức Mạnh cho đến Nguyễn Phú Trọng, đều “nói không”
với các đòi hỏi áp dụng nguyên tắc “tam quyền phân lập”. Làm thế nào các nhà
lãnh đạo cộng sản lại có thể chấp nhận một Quốc hội có tính độc lập khi trong
thâm tâm, họ chỉ muốn “cái-gọi-là Quốc hội” làm nhiệm vụ “đóng dấu”
(rubber-stamp) nhằm hợp pháp hóa những quyết định mà Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã quyết định từ trước?
Điều đáng nói là việc Hiếp pháp 1946 cho phép Chủ tịch nước tham
gia Nghị viện đã giúp cho chức vụ này khống chế toàn bộ quy trình lập pháp. Là
người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch nước VNDCCH là người chủ trì khâu soạn thảo
và đệ trình dự luật (điều 52). Trong quá trình Nghị viện thảo luận và biểu
quyết các dự luật, Chủ tịch nước vẫn có thể tham gia với tư cách thành viên của
Nghị viện. Sau khi Nghị viện biểu quyết thông qua, nếu không bằng lòng, Chủ
tịch nước lại còn có quyền phủ quyết bằng cách “yêu cầu Nghị viện thảo luận
lại” (điều 31).
Trên thế giới, không có nguyên thủ quốc gia nào có quyền lớn như
thế đối với quy trình lập pháp. Mặc dù Tổng thống Hoa Kỳ có thể sử dụng quyền
phủ quyết có giới hạn (nghĩa là Quốc hội có thể vượt qua bằng một đa số 2/3),
nhưng vị nguyên thủ quốc gia này hoàn toàn đứng ngoài quy trình lập pháp. Dưới
chế độ đại nghị kiểu Anh (thường gọi là hệ thống Westminster), nguyên thủ quốc
gia cũng có quyền phủ quyết, nhưng nhân vật này hoàn toàn đứng ngoài quá trình
làm luật và hầu như không sử dụng quyền phủ quyết này. Dưới chế độ nửa-tổng
thống, mặc dù Tổng thống Pháp có quyền “đề nghị thảo luận lại một phần hay toàn
bộ luật” (điều 10, Hiến pháp 1958), nhưng nhân vật này chỉ có quyền trong các
khâu soạn thảo-đệ trình dự luật và ký ban hành luật chứ không có quyền tham gia
quá trình thảo luận và biểu quyết (công việc này là của Thủ tướng và Nghị
viện).
Có thể nói việc Chủ tịch nước VNDCCH được kiêm nhiệm chức vụ
nghị sĩ là sự vi phạm nguyên tắc “tam quyền phân lập”, khiến chúng ta nhớ lại
lời cảnh báo của nhà tư tưởng chính trị Montesquieu: “Khi mà quyền lập pháp
được hợp nhất với quyền hành pháp trong cùng một người hay cùng một tập thể
quan chức thì không có chút tự do nào cả, bởi vì người ta có thể lo sợ rằng
cùng một vị vua hay cùng một viện nguyên lão sẽ làm ra những luật lệ bạo ngược
để thực hành chúng một cách bạo ngược.”[xvi]
3) Một khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946 là đã thiết
lập một cơ quan “lãnh đạo” bên trong Nghị viện có tên là Ban Thường vụ Nghị
viện và giao quyền lực quá lớn cho cơ quan này, dẫn đến tình trạng vô hiệu hóa
quyền lực của toàn thể Nghị viện.
Điều thứ 27 quy định: “Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng,
hai Phó nghị trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập thành
Ban thường vụ. Nghị trưởng và Phó nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó trưởng
Ban thường vụ.” Ban thường vụ lại được giao rất nhiều quyền: “Khi Nghị viện
không họp, Ban thường vụ có quyền: (a) Biểu quyết những dự án sắc luật của
Chính phủ. Những sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để
Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ. (b) Triệu tập Nghị viện nhân dân. (c) Kiểm
soát và phê bình Chính phủ” (điều 36). Hơn thế nữa, Ban Thường vụ Nghị viện còn
có quyền cùng với Chủ tịch Nước quyết định tuyên chiến hay đình chiến “khi Nghị
viện không họp được” (điều 38)[xvii]
Việc cho phép Ban Thường vụ Nghị viện được thông qua các dự án
sắc luật (tức dự luật)
của Chính phủ chính là một sơ hở rất lớn xét về thủ tục lập pháp. Tại điều 52,
có ghi một trong những quyền hạn của Chính phủ: “(c) Đề nghị những dự án sắc
luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp
đặc biệt.” Trường hợp đặc biệt là trường hợp nào, không thấy nói rõ.
Ở các quốc gia dân chủ trên thế giới, Nghị viện hay Quốc hội về
nguyên tắc là một thực thể
chính trị bao gồm các đại biểu của nhân dân trên phạm vi toàn quốc,
mỗi đại biểu đại diện cho một số dân nhất định trong một khu vực bầu cử. Nghị
viện hay Quốc hội thật sự chỉ tồn tại trong thời gian của kỳ họp (in session),
và chỉ có những quyết định thực hiện trong kỳ họp mới có giá trị pháp lý. Mỗi
khi cơ quan lập pháp ngừng họp (in prorogation), không một cá nhân hay một tập
thể nào có quyền thay thế cho nó để biểu quyết hay ra quyết định. Cho nên tất
cả những biểu quyết hay quyết định trong thời gian Nghị viện hay Quốc hội ngừng
họp đều có thể coi là một
hành động tiếm quyền.
Mặt khác, Nghị viện hay Quốc hội trên thế giới không có “người
lãnh đạo” hay “cơ quan lãnh đạo” hiểu theo nghĩa thông thường. Có thể có một
người hay một nhóm người được bầu ra để làm nhiệm vụ điều hành các hoạt động
của cơ quan lập pháp, nhưng cá nhân hay tập thể này không bao giờ được phép
thay mặt Nghị viện hay Quốc hội để biểu quyết hay quyết định bất cứ điều gì. Để
có thể hoạt động một cách hiệu quả, Nghị viện hay Quốc hội thường thành lập một
số ủy ban chuyên môn hoạt động thường xuyên (permanent committees), nhưng các
ủy ban này chỉ có trách nhiệm xem xét, thẩm tra các dự luật để soạn các bản báo
cáo, nhận xét giúp các đại biểu nắm vững vấn đề trước khi thảo luận, biểu quyết
chứ không có quyền biểu quyết thay cho toàn thể Nghị viện hay Quốc hội.
Trong những trường hợp đặc biệt, nếu xét thấy cần thiết, Nghị
viện hay Quốc hội có thể cho phép Chính phủ được ban hành những văn bản có giá
trị tương đương với luật, nhưng những văn bản này chỉ mang tính chất tạm thời
và được giám sát chặt chẽ. Để trở thành luật, các văn bản này phải được thông
qua tại Nghị viện hay Quốc hội theo đúng quy trình lập pháp thông thường chứ
không thể thông qua bằng con đường tắt. Vd: tại Pháp, ngoài các văn bản thuộc quyền
lập quy (pouvoir réglementaire), nhánh hành pháp có thể đề nghị với Nghị viện
để được ủy quyền ban hành các sắc luật (ordonnance)[xviii]. Những sắc luật này chỉ
có giá trị trong một thời gian nhất định, chịu sự kiểm soát của các cơ quan
giám sát luật như Hội đồng Nhà nước (Conseil d’Etat), Hội đồng Bảo hiến
(Conseil constitutionel). Để có thể trở thành luật (loi), các sắc luật đó phải
được Nghị viện phê chuẩn trước thời hạn đã quy định, quá thời hạn đó các sắc
luật chưa được phê chuẩn sẽ đương nhiên mất hiệu lực.
Trở lại với Hiến pháp 1946 của VNDCCH, chúng ta thấy việc cho
phép Ban Thường vụ Nghị viện được “thông qua trước” các dự luật của Chính phủ
như điều 36 quy định đã tạo ra một “con đường tắt” để Chính phủ dễ dàng thông
qua các dự luật – với sự thỏa thuận của một bộ phận nhỏ trong cơ quan lập pháp.
Trong trường hợp Nghị viện không họp, Chính phủ với sự phê chuẩn của Ban Thường
vụ Nghị viện có thể ban hành các “dự án sắc luật” có giá trị ngang với luật.
Nếu những dự án luật này vi phạm Hiến pháp, làm hại đến toàn bộ nền dân chủ thì
Chủ tịch nước và Chính phủ vẫn có thể phủi tay vì đã được Ban Thường vụ Nghị
viện gánh vác giùm trách nhiệm. Trong trường hợp Nghị viện họp bình thường, các
dự luật đó cũng sẽ được thông qua một cách dễ dàng vì hai lý do: (a) Dự luật đã
được ban lãnh đạo của Nghị viện thông qua trước, các nghị sĩ còn lại muốn ngăn
chặn hay sửa đổi phải chống lại chính ban lãnh đạo của mình chứ không phải
chống lại Chính phủ; (b) Chính phủ và Ban Thường vụ Nghị viện bao gồm những
người hoạt động thường xuyên, nắm vững các vấn đề có liên quan, trong khi các
đại biểu còn lại không có điều kiện để tìm hiểu vấn đề, vì thế không đủ năng
lực để phản biện. “Thông qua” chỉ còn là thủ tục mang tính hình thức, chiếu lệ.
Nhược điểm này lại càng rõ hơn khi nhìn vào điều 28: “Nghị viện
nhân dân mỗi năm họp hai lần do Ban thường vụ triệu tập vào tháng 5 và tháng 11
dương lịch.”. Với quy định này, Nghị viện chỉ là một cơ quan lập pháp “xuân thu
nhị kỳ” mang tính hình thức, trình diễn, mỗi năm chỉ hoạt động một vài tuần hay
một vài tháng, toàn bộ thời gian còn lại giao khoán công việc cho Ban Thường vụ
Nghị viện. “Nghị viện nhỏ” mang tên Ban
Thường vụ Nghị viện mới thật sự là cơ quan lập pháp có thực quyền,
chẳng những làm công tác lập pháp mà nắm cả các công việc như “kiểm soát và phê
bình Chính phủ” hay “tuyên chiến và đình chiến trong trường hợp Nghị viện không
họp được”.
Trong lịch sử, “con đường tắt” để thông qua luật như đã nói trên
đây đã được Đảng Cộng sản khuếch trương kể từ khi xuất hiện công khai với tư
cách là một đảng độc quyền lãnh đạo. Trong Hiến pháp 1959, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội (hậu duệ của Ban Thường vụ Nghị viện) chính thức được giao quyền “ra
pháp lệnh” (điều 53). Trong Hiến pháp 1980, quyền này được giao cho Hội đồng
Nhà nước (điều 100); cơ quan này được định nghĩa là “chủ tịch tập thể của Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và là “cơ quan cao nhất hoạt động thường
xuyên của Quốc hội” (điều 98)[xix]. Trong Hiến pháp 1992, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội được tái lập và có quyền “ra pháp lệnh về những vấn đề
được Quốc hội giao” (điều 91). “Pháp lệnh” chính là những văn bản pháp lý tạm
thời có giá trị gần ngang với luật; những pháp lệnh sau khi áp dụng một thời
gian sẽ được chuyển thành luật. Vì việc ban hành các pháp lệnh đã được giao cho
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quá trình chuyển pháp lệnh thành luật chỉ còn là vấn
đề nội bộ của Quốc hội chứ không còn là vấn đề của Chính phủ. Đây chính là điều
kiện thuận lợi nhất để Chính phủ dễ dàng khống chế Quốc hội, biến Quốc hội
thành cơ quan phụ thuộc vào Chính phủ và Bộ Chính trị. Trong điều kiện của một
chế độ độc đảng, khi mà Ủy ban Thường vụ bao gồm những người do Bộ Chính trị
chọn lựa, sắp đặt để làm nhiệm vụ “kiểm soát các đại biểu nhân dân” thì việc
“cơ quan đại biểu nhân dân” trở thành “Quốc hội của Đảng, do Đảng và vì Đảng”
là điều tất yếu, là chuyện đương nhiên.
Đánh giá chung
Điều 16 của Bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền năm 1789
của nước Pháp có ghi: “Bất kỳ xã hội nào trong đó các quyền (droits) không
được bảo đảm, sự phân lập
giữa các quyền lực không được xác định, đều coi như không có Hiến
pháp.” Nói cách khác, một bản Hiến pháp tốt phải có đủ hai yếu tố: (1) bảo đảm
được các quyền
(nhân quyền và
dân quyền) và
(2) thiết kế được một hệ thống chính trị dựa trên nguyên tắc “phân lập giữa các quyền lực”
(séparation des pouvoirs, tức “tam
quyền phân lập”).
Như trên đã phân tích, mặc dù là văn bản lập hiến khá nhất trong
số các bản hiến pháp đã soạn thảo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hiến pháp 1946 đã không bảo đảm được sự cân bằng giữa các thiết chế chính trị
theo đúng nguyên tắc “tam quyền phân lập”. Cán cân quyền lực nghiêng hẳn về một
phía (Chủ tịch nước) trong khi quyền lực của cơ quan lập pháp (Nghị viện) lại
lọt vào tay một thiểu số (Ban Thường vụ Nghị viện) khiến cho quyền lực của Chủ
tịch nước trở thành gần như tuyệt đối. Với một cán cân quyền lực thiên lệch như
thế, không có gì bảo đảm nhánh tư pháp giữ gìn được tính độc lập của mình như
đã ghi ở điều thứ 69: “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp.” Vì thế, không thể coi Hiến pháp
1946 là một bản hiến pháp dân chủ mẫu mực, có thể áp dụng nguyên si trong tình
hình hiện nay như một số nhà nghiên cứu hay chính trị gia đã khẳng định.
Tất nhiên, trong hoàn cảnh thực tế của nước Việt Nam hiện nay,
nếu Đảng Cộng sản thật sự có ý muốn cải cách chính trị để chuyển hóa từ một chế
độ độc-tài-toàn-trị sang một chế độ hướng-đến-dân-chủ, nếu các đảng viên cộng
sản “cấp tiến” có khả năng đấu tranh để đạt được một hiến pháp tương tự như
Hiến pháp 1946, thì chúng ta cũng có thể hoan nghênh, coi đó như một bước tiến đầu tiên, một bước
chuyển tiếp. Thế nhưng, như đã phân tích trên đây, văn bản lập hiến
này còn có nhiều khuyết điểm nghiêm trọng, vì thế không thể coi đó là mục tiêu
sau cùng, là đích đến của con đường dân chủ hóa. Để có thể thiết lập quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên
lĩnh vực chính trị, cần phải hoàn thành một bước
tiến thứ hai, một nửa
đoạn đường kế tiếp – quan trọng hơn và thiết yếu hơn. Đó chính là
việc thiết kế lại
các thiết chế chính trị dựa trên nguyên tắc “tam quyền phân lập” nhằm tạo ra
một hệ thống kiểm soát và
làm cân bằng (checks and balances) – cơ chế hiệu quả nhất để ngăn
ngừa lạm quyền và tham nhũng. Không làm được điều đó thì tự do, dân chủ vẫn chỉ
là những cái bánh vẽ,
còn trong thực tế thì nhân dân vẫn phải tiếp tục chịu đựng những “vi phạm
thường ngày” của một bộ máy hành pháp chuyên quyền không bị kiểm soát hoặc
không thể kiểm soát. Đó chính là bài học xương máu mà nhân dân các nước “chậm
tiến” đã và đang phải trả giá cho những ước mơ “độc lập, tự do” có tính bồng
bột, ngây thơ từ giữa thế kỷ 20 cho đến tận ngày nay.
Nhân dân Việt Nam – những người đã từng bị lừa dối quá nhiều
trong quá khứ, không thể cho phép bất cứ cá nhân hay tổ chức chính trị nào tìm
cách thay thế một sự lừa dối này bằng một sự lừa dối khác, không thể tiếp tục
thay thế ảo tưởng này bằng một ảo tưởng khác.
Đà Lạt, nhân kỷ niệm ngày Đại cách mạng Pháp thành công
(14/7/1789 – 14/7/2012)
MAI THÁI LĨNH
© 2012 pro&contra
[i] Phạm Duy Nghĩa, Bản Hiến pháp
sáu mươi năm trước và những món nợ lịch sử, Tuổi
Trẻ, Chủ Nhật, 18/02/2007:
[ii] Impeachment: một số tác giả
sử dụng từ “đàn hặc”. Nhưng theo Đào Duy Anh thì “đàn hặc” có nghĩa là “chỉ
trích tội lỗi của quan lại (censurer)”. Ý nghĩa này hơi nhẹ so với impeachment,
vì thế tôi dùng từ “luận tội”.
[iii] Hiến pháp mới của Phần Lan
(năm 2000) đã hạn chế quyền lực của Tổng thống đến mức nhiều nhà chính trị học
không đồng ý coi Phần Lan như một mô hình tiêu biểu của chế độ nửa-tổng thống.
Vì vậy tôi không dùng bản này để so sánh.
[iv] Trước đó, quyền bất khả xâm
phạm này chỉ dành cho các nghị sĩ tại Hạ viện và Thượng viện.
[v] A Country Study: Finland, op. cit., Chapter 4.
[vi] Phó thự 副 署: Quan
Tổng thống đã ký tên ở các pháp luật và mệnh lệnh rồi, phải có một viên Bộ trưởng ký tên theo vào, thế
gọi là phó thự (contre-signer). Đào Duy Anh, Hán-Việt
Từ điển giản yếu.
[vii] Constitution 1919 of Finland, Adopted on:
17 July 1919, ICL Document Status: 22 Dec 1995: http://www.servat.unibe.ch/icl/fi01000_.html.
[viii] Nguyên văn: “Le Premier
Ministre dirige l’action du Gouvernement.”
[ix] Mai Thái Lĩnh, Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong,
talawas 2005, chương VII : Dân chủ vô sản: từ lý luận đến hiện thực.
[x]United Kingdom là tên viết tắt
của United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland (Vương quốc Liên hiệp
ĐạiBritain và Bắc Ái Nhĩ Lan). Vương quốc này bao gồm 4 xứ (countries): Anh
(England),Wales,Scotland và Bắc Ái Nhĩ Lan.
[xi] Đạo luật này thay thế cho
một đạo luật ban hành vào năm 1957.
[xii] Tòa Thượng thẩm (High
Court) ở hai xứ Anh (England) và Wales chịu trách nhiệm xét xử sơ thẩm đối với
các vụ án liên quan đến những món tiền lớn hay các vụ án quan trọng, đồng thời
cũng có thẩm quyền giám sát đối với hầu hết các tòa án cấp dưới. Một số từ điển
Anh-Việt dịch nhầm thành Tòa án Tối cao. Trong thực tế, “tòa án tối cao” ở
Vương quốc Liên hiệp Anh trước đây là Ủy ban Phúc thẩm (Appellate Committee)
thuộc Thượng viện Anh. Từ cuối năm 2009, Tòa án Tối cao (Supreme Court of
United Kingdom) được chính thức thành lập, thay thế cho Ủy ban nói trên.
[xiii] Parliament
of the United Kingdom, “Disqualification for membership of the House
of Commons”:
[xiv] Assemblée nationale, “Fiche
n° 16 : Le statut du député”:
[xv] Assemblée nationale, “Les
incompatibilités”:
[xvi] Montesquieu, De l’esprit des lois,
livre XI, 6 (De la
constitution anglaise).
[xvii] Điều 38 quy định: “Khi
Nghị viện không họp được, Ban Thường vụ cùng với Chính phủ có quyền quyết định
tuyên chiến hay đình chiến.” Nhưng điều 49, mục (k) lại ghi “Tuyên chiến hay
đình chiến theo như điều 38 đã định” thuộc quyền hạn của Chủ tịch nước.
[xviii] Ở Pháp, sắc luật (ordonnance)
dưới thời Đệ ngũ Cộng hòa là sự tiếp nối của hình thức sắc lệnh-luật
(décret-loi) dưới thời Đệ tam Cộng hòa và Đệ tứ Cộng hòa.
[xix] Vào lúc này, Chủ tịch và
các Phó chủ tịch Quốc hội chỉ làm các công việc mang tính hình thức như: chủ
toạ các phiên họp, bảo đảm việc thi hành nội quy, thực hiện quan hệ đối ngoại
của Quốc hội, v.v…
No comments:
Post a Comment