03.07.2012
Viết xong bài “ Cái hèn và cái khổ của giới cầm bút Việt Nam”, tôi lại sực nhớ
đến cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản 1945-90 của tôi vốn được
nhà Văn Nghệ ở California xuất bản vào năm 1991, sau, tái bản vào năm 1996.
Cuốn sách đã tuyệt bản, tôi lại lười, không nghĩ đến chuyện in lại. Vả lại,
cũng không còn thích mấy nữa. In lại, cần bổ sung nhiều. Nhưng tôi lại quá bận
với các đề tài mới hơn là một cuốn sách đã cũ.
Chỉ xin trích lại dưới đây đoạn kết trong cuốn sách ấy. Trong đó, tôi có nhắc đến những giọt nước mắt của nhà văn đàn anh mà Nguyễn Minh Châu đã kể trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” để tặng quý bạn nào chưa đọc cuốn sách ấy:
“Theo dõi nền văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản, từ năm 1945 đến nay, người ta dễ thấy, những tác phẩm tương đối thành công của họ đều thuộc một trong hai chủ đề: hoặc thể hiện lòng yêu nước hoặc thể hiện khát vọng tự do, dân chủ.
Những tác phẩm mang chủ đề thứ nhất xuất hiện chủ yếu trong hai giai đoạn: giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và giai đoạn gọi là “chống Mỹ cứu nước”. Đặc điểm của cả hai giai đoạn: chiến tranh.
Những tác phẩm mang chủ đề thứ hai xuất hiện chủ yếu trong hai giai đoạn: giai đoạn cộng sản củng cố quyền bính ở miền Bắc sau Hiệp định Genève và giai đoạn cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, trở thành kẻ thống trị độc tôn trong cả nước sau năm 1975. Đặc điểm của cả hai giai đoạn: hoạ độc tài.
Sự xuất hiện của hai chủ đề trên, như vậy, có tính chất chu kỳ, gần gần như là một quy luật: cộng sản chỉ có thể tập họp, động viên tinh thần của giới cầm bút trong hoàn cảnh có chiến tranh; đến lúc tiếng súng đã tắt, hoà bình trở lại, ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc hoặc thống nhất đất nước rơi xuống, cộng sản hiện nguyên hình là một bạo chính, giới cầm bút lại trở thành những kẻ phản kháng, ào ạt lên tiếng đòi hỏi tự do và dân chủ.
Một điều cần để ý: cả lòng yêu nước lẫn khát vọng tự do, dân chủ đều là những yếu tố có tính chất phi xã hội chủ nghĩa. Là một chế độ chuyên chính, cộng sản không những không dung hợp mà còn, hơn nữa, thù nghịch với tất cả những khát vọng tự do, dân chủ. Là một ý thức hệ đặt căn bản trên tinh thần giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản, cộng sản chỉ coi lòng yêu nước là một chiêu bài, dần dần sẽ bị triệt tiêu.
Do đó, suốt mấy chục năm qua, nhà cầm quyền cộng sản không ngừng can thiệp để, một là, ngăn chận dòng văn học thể hiện khát vọng tự do, dân chủ; hai là, làm lệch hướng dòng văn học thể hiện lòng yêu nước bằng cách gắn liền khái niệm yêu nước với khái niệm yêu chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế, cộng sản không những chỉ trấn áp những người cầm bút khát khao tự do, dân chủ mà còn, một cách kín đáo, trù dập cả những người cầm bút chỉ khăng khăng yêu nước, không thừa nhận khẩu hiệu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” do cộng sản đưa ra. Nắm bắt điều này, chúng ta hiểu được tại sao cộng sản cố đẩy vào bóng tối những tài năng cao ngất và những tấm lòng sáng vằng vặc như Hồ Dzếnh, như Quang Dũng, như Văn Cao… Những người không chống lại cộng sản nhưng cũng không chịu đồng nhất tổ quốc với một thể chế chính trị nào.
Bởi vậy, sẽ là một sự lừa bịp trơ trẽn, nếu có ai đó tuyên dương thành tựu của nền văn học cộng sản bằng cách căn cứ vào sự thành công của một số tác phẩm, một số tác giả yêu nước hoặc ước mơ tự do và dân chủ. Lý do đơn giản là, những tác giả ấy, những tác phẩm ấy hoàn toàn nằm ngoài quỹ đạo của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Ngược lại, cũng sẽ là một bất công to lớn, nếu có ai đó gộp chung các nhà văn, các nhà thơ yêu nước, yêu tự do và yêu dân chủ vào thế giới văn học cộng sản để phê phán, đả kích và phủ nhận: họ không phân biệt thủ phạm và nạn nhân.
Cái gọi là văn học cộng sản, thật ra, không phải là một cái gì thuần nhất. Nó có sắt, có thép, nhưng cũng có nước mắt nữa. Nó inh ỏi những tiếng gào thét giết người hung tợn. Nhưng nó cũng có cả những tiếng khóc thầm.
Làm sao chúng ta có thể cầm lòng được trước cái hình ảnh mà Nguyễn Minh Châu kể, một nhà văn đàn anh nào đó, nhiều người đoán là Nguyễn Tuân, nâng ly rượu lên trước đám đàn em, vừa cười vừa khóc, nước mắt cứ tuôn rơi lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng?
Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến nay, dưới chế độ cộng sản, đã có bao nhiêu giọt nước mắt như thế đổ xuống trên nền đất đen đặc bóng tối?”
(Trích từ cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ Cộng sản, 1945-1990, nxb Văn Nghệ in lần thứ hai, 1996, tr. 369-371)
29.06.2012
Tôi mới đọc bài viết “Sự hèn mạt của báo
chí” trên blog của Trương Duy Nhất. Đọc xong, vừa thán phục vừa ngậm
ngùi. Thán phục sự can đảm của tác giả và ngậm ngùi cho thân phận báo chí Việt
Nam.
Trương Duy Nhất kể lại một câu nói của một cán bộ tuyên giáo nào đó trong một bữa nhậu mấy năm trước: “Báo chí các cậu hèn bỏ mẹ!” Rồi bình luận tiếp: “Tức. Một tay nó bóp d.., tay kia dán băng keo bịt miệng, thế mà vẫn lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho lão một đấm, nhưng nghĩ lại thấy lão nói đúng chứ đâu sai. Báo chí kiểu gì mà chỉ một cú điện thoại, một văn bản miệng đã răm rắp tự bịt miệng nhau.”
Và ông dẫn chứng: “Một cái lệnh miệng từ văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện Văn Giang (Hưng Yên) cũng khiến tất cả hơn 700 tòa báo câm lặng, không dám cử phóng viên đến đưa tin. Khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… nhưng không một tòa báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan chủ quản của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh cũng không dám công khai lên tiếng.
“Phải đợi đúng nửa tháng sau, trước sức ép dữ dội từ dư luận và sự mắng chửi từ các trang mạng lề trái, VOV mới miễn cưỡng đăng vài mẩu tin lên tiếng bảo vệ phóng viên của mình. Nhưng được vài hôm rồi im bẵng đến nay. Không còn nghe bất cứ một tòa báo nào nhắc lại chuyện này nữa. Câu chửi “Đ.M mày! Nhà báo cũng đánh cho chết mẹ mày đi” trong vụ trấn áp Văn Giang vẫn văng vẳng mãi như một nỗi ô nhục của nghề báo.”
Trương Duy Nhất nêu lên nhận định của một số đồng nghiệp.
Ví dụ, nhà báo/blogger Phan Văn Tú: “Trong đầu thằng nhà báo Việt nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt nó trước khi bị người khác cắt”. Hay, nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt”: “Nhiều người cầm bút giờ còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không giống với sự thật… hàng ngày, dù không tin, nhưng vẫn phải viết ra một điều không thật – một cách khéo léo đến dối trá, để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.”
Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết:
“Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. […] Run sợ đến dối trá. […] Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến vậy. […] ở Việt Nam, nếu không mù chữ thì ai cũng có thể làm nhà báo được.”
Không phải chỉ có giới làm báo mới hèn. Các giới khác, từ giới làm văn, làm thơ đến giới làm âm nhạc cũng hèn. Nhạc sĩ Tô Hải tự nhận mình là “bồi bút”, là “hèn sĩ”, và, ở tuổi 80, viết nguyên cả một cuốn sách với nhan đề là Hồi ký của một thằng hèn.
Trước đó, năm 1988, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, trong bài “Cái hèn của người cầm bút” đăng trên tạp chí Sông Hương số 31, cũng nói nhiều về những cái hèn ấy. Ông so sánh giới cầm bút Việt Nam với một số người cầm bút ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam thuộc thế hệ trước, như Nam Cao, chẳng hạn, và rút ra nhận định: Nhà văn Việt Nam hèn không phải chỉ ở việc bẻ cong ngòi bút để phục vụ tuyên truyền mà còn ở chỗ không dám viết thật, dù chỉ viết cho mình đọc. Có điều kết luận của ông không hẳn dễ được nhiều người đồng ý: Người cầm bút Việt Nam hèn, nhưng cái hèn ấy chủ yếu “do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”
Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu trên báo Văn nghệ ở Hà Nội năm 1987, một bài viết được xem là tiêu biểu cho phong trào đổi mới văn học tại Việt Nam. Bài viết đặt ra nhiều vấn đề, trong đó, một trong những vấn đề được Nguyễn Minh Châu viết một cách tâm huyết và để lại nhiều ấn tượng nhất cho người đọc chính là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào. Giọng văn đầy cảm xúc:
“Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”, nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”
Đọc những lời tức tưởi như vậy, thực tình tôi không muốn bình luận gì thêm. Chỉ thấy vang vang trong đầu câu hỏi của Nguyễn Minh Châu: “Sao mà khổ vậy?”
Ừ, sao mà khổ đến mức như vậy mà người ta vẫn chịu đựng được mãi?
Trương Duy Nhất kể lại một câu nói của một cán bộ tuyên giáo nào đó trong một bữa nhậu mấy năm trước: “Báo chí các cậu hèn bỏ mẹ!” Rồi bình luận tiếp: “Tức. Một tay nó bóp d.., tay kia dán băng keo bịt miệng, thế mà vẫn lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho lão một đấm, nhưng nghĩ lại thấy lão nói đúng chứ đâu sai. Báo chí kiểu gì mà chỉ một cú điện thoại, một văn bản miệng đã răm rắp tự bịt miệng nhau.”
Và ông dẫn chứng: “Một cái lệnh miệng từ văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện Văn Giang (Hưng Yên) cũng khiến tất cả hơn 700 tòa báo câm lặng, không dám cử phóng viên đến đưa tin. Khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… nhưng không một tòa báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan chủ quản của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh cũng không dám công khai lên tiếng.
“Phải đợi đúng nửa tháng sau, trước sức ép dữ dội từ dư luận và sự mắng chửi từ các trang mạng lề trái, VOV mới miễn cưỡng đăng vài mẩu tin lên tiếng bảo vệ phóng viên của mình. Nhưng được vài hôm rồi im bẵng đến nay. Không còn nghe bất cứ một tòa báo nào nhắc lại chuyện này nữa. Câu chửi “Đ.M mày! Nhà báo cũng đánh cho chết mẹ mày đi” trong vụ trấn áp Văn Giang vẫn văng vẳng mãi như một nỗi ô nhục của nghề báo.”
Trương Duy Nhất nêu lên nhận định của một số đồng nghiệp.
Ví dụ, nhà báo/blogger Phan Văn Tú: “Trong đầu thằng nhà báo Việt nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt nó trước khi bị người khác cắt”. Hay, nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt”: “Nhiều người cầm bút giờ còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không giống với sự thật… hàng ngày, dù không tin, nhưng vẫn phải viết ra một điều không thật – một cách khéo léo đến dối trá, để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.”
Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết:
“Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. […] Run sợ đến dối trá. […] Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến vậy. […] ở Việt Nam, nếu không mù chữ thì ai cũng có thể làm nhà báo được.”
Không phải chỉ có giới làm báo mới hèn. Các giới khác, từ giới làm văn, làm thơ đến giới làm âm nhạc cũng hèn. Nhạc sĩ Tô Hải tự nhận mình là “bồi bút”, là “hèn sĩ”, và, ở tuổi 80, viết nguyên cả một cuốn sách với nhan đề là Hồi ký của một thằng hèn.
Trước đó, năm 1988, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, trong bài “Cái hèn của người cầm bút” đăng trên tạp chí Sông Hương số 31, cũng nói nhiều về những cái hèn ấy. Ông so sánh giới cầm bút Việt Nam với một số người cầm bút ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam thuộc thế hệ trước, như Nam Cao, chẳng hạn, và rút ra nhận định: Nhà văn Việt Nam hèn không phải chỉ ở việc bẻ cong ngòi bút để phục vụ tuyên truyền mà còn ở chỗ không dám viết thật, dù chỉ viết cho mình đọc. Có điều kết luận của ông không hẳn dễ được nhiều người đồng ý: Người cầm bút Việt Nam hèn, nhưng cái hèn ấy chủ yếu “do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”
Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu trên báo Văn nghệ ở Hà Nội năm 1987, một bài viết được xem là tiêu biểu cho phong trào đổi mới văn học tại Việt Nam. Bài viết đặt ra nhiều vấn đề, trong đó, một trong những vấn đề được Nguyễn Minh Châu viết một cách tâm huyết và để lại nhiều ấn tượng nhất cho người đọc chính là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào. Giọng văn đầy cảm xúc:
“Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”, nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”
Đọc những lời tức tưởi như vậy, thực tình tôi không muốn bình luận gì thêm. Chỉ thấy vang vang trong đầu câu hỏi của Nguyễn Minh Châu: “Sao mà khổ vậy?”
Ừ, sao mà khổ đến mức như vậy mà người ta vẫn chịu đựng được mãi?
No comments:
Post a Comment