I. Thế Nào Quyền Lợi Quốc Gia
Quyền lợi quốc gia đối chiếu với hai thuật ngữ “National
Interest” [Anh ngữ] và “Raison d’État” [Pháp ngữ]. Theo
những quan điểm trên, quyền lợi quốc gia gồm [a] các quan tâm và
tham vọng về mặt quyền lực quân sự, kinh tế, văn hoá [b] mà một quốc gia
đôn đốc thành lợi ích cốt lõi, thành quốc sách hay định hướng căn bản.
Về mặt quốc sự, quyền lợi quốc gia thường có những
thuật ngữ bổ túc, liên đới như quyền tự quyết, quyền bá chủ, an ninh quốc gia,
bí mật quốc gia, bí mật quân sự, v.v.
Về mặt quốc gia sinh tồn, quyền lợi quốc gia thường
phát xuất từ các nhu cầu phúc lợi, thịnh vượng, phát triển kinh tế, sáng tạo kỹ
thuật, lãnh đạo tài chính, hiệp thương, v.v.
Về mặt văn hoá, quyền lợi quốc gia bao gồm những
truyền thống tư tưởng, ý thức hệ chỉ đạo; những tập tục, tín ngưỡng làm mạch
sống tinh thần của dân tộc hay của nhóm người lãnh đạo quốc gia.
Quyền lợi quốc gia, về mặt quốc tế công pháp, thường
bầy tỏ sắc thái chính trị ngoại giao thực tiễn – Realpolitik,[1] đôn
đốc quyền lực trong mọi giao dịch đối ngoại, nhất là khi có đối
thủ/thù địch rõ rệt.
1.
Quyền Lợi Quốc gia của Hoa Kỳ
Vì quyền lợi quốc gia đặt trên căn bản phát triển
kinh tế, xã hội song song với hệ thống bảo vệ an ninh, quốc phòng, nên
Hoa Kỳ ngay từ Đệ Nhị Thế Chiến thường đôn đốc phát triển liên hợp tài chính
quân sự kỹ nghệ [financial military industrial complex],[2] sẵn
sàng nuôi dưỡng các đại cơ sở chiến lược về quốc phòng [3] và năng
lượng [4] như BAE Systems, Lockheed Martin, Boeing, Northrop
Grumman, General Dynamics, Raytheon, EADS, Halliburton, v.v. với tác dụng hỗ
trợ Quốc Phòng Pentagon và mọi khía cạnh an ninh quốc gia.
Thật vậy, từ chiến lược phòng thủ an ninh hoà bình
của Hoa Kỳ thường xuất phát song hành hiện tượng hợp lý hoá xung đột[5] bằng
chiến tranh lạnh với chiến lược kiềm chế/be bờ,[6] như chiến tranh
lạnh,[7] chiến tranh khu vực,[8] và gần đây chiến
lược hỗ trợ các cuộc Nổi Dậy Ả Rập.[9]
Về mặt nổi/chính trị/ý thức hệ/, Hoa Kỳ luôn
luôn đôn đốc lý tưởng dân chủ tự do, bảo trọng nhân quyền và sự thịnh vượng
chung trên toàn cầu, nên sẵn sàng ra tay phát triển các quốc gia kém mở mang,
cứu độ các dân tộc nạn nhân của bạo quyền Phát Xít, Cộng Sản quốc tế, hoặc
phòng ngừa viễn tượng chiến tranh đề phòng [10] khủng bố phá hoại [preventive
war] do các nhóm phiệt Ả Rập cuồng tín Taliban, al-Qaeda v.v. gây biến tại
New York, Virginia-Washington, DC, Pensylvania[11] và trên khắp thế
giới.
Về mặt đáy, Hoa Kỳ ứng dụng lý do tồn tại [12] của
quyền lợi quốc gia theo yêu sách của tổ hợp tài chính quân sự kỹ nghệ, song
song với nhu cầu phát triển quốc gia, thêm phương tiện nuôi dân Hợp Chúng
Quốc.
Theo chiều hướng đó, nhà sách lược, nguyên Cố vấn An
ninh, nguyên Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Condoleezza Rice đã ghi nhận trong bài tham
luận, “Promoting the national interest,” Foreign Affairs Jan/Feb
2000, Volume 79, Issue 1:
With no Soviet threat, America has found it
exceedingly difficult to define its “national interest.” Foreign policy in a
Republican administration should refocus the country on key priorities:
building a military ready to ensure American power, coping with rogue regimes,
and managing Beijing and Moscow. Above all, the next president must be
comfortable with America’s special role as the world’s leader
[lược dịch: không có nguy cơ Nga
Xô, Hoà Kỳ khó định nghĩa rõ “quyền lợi quốc gia” của mình. Ngành ngoại
giao Hoa Kỳ của chính phủ Cộng Hoà nên đặt trọng tâm vào những ưu tiên chỉ đạo
như sau: cập nhật hoá thế lực quân sự để đương đầu với các chính thể gian
giảo và cầm chừng Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh. Nhất thiết, Tổng Thống kế vị (George
W. Bush, LNĐ chú thích) phải thích nghi với vai trò lãnh đạo thế
giới].
2.
Quyền Lợi Quốc gia của Trung Quốc
Đối với Trung Quốc, một siêu cường quốc hạng nhì
đang nhô lên, quyền lợi quốc gia là tham vọng phát triển một nền kinh tế ồ ạt,
nhiều lượng, ít phẩm, cốt để cầm hơi cho hơn một tỷ 3 trăm triệu dân tạp chủng
Hán, Thanh, Mông Cổ, Hồi, Tây Tạng, nhưng thật ra là để củng cố Đảng cộng phỉ
đương cuộc.
Quyền lợi quốc gia khi đôn đốc quá mức, nhất là khi
tập trung trong tay đại cường quốc tham lam, bất chính như Cộng sản Trung Quốc,
dễ chuyển thế thành bá quyền thống trị dưới hình thức tân đế quốc nhằm:
- “thuộc địa hoá” những khu vực kém mở mang tại Phi Châu, Trung Đông, Nam Mỹ, Đông Nam Á, cốt để trục lợi và làm giầu cấp tốc, không đếm xỉa tới tình trạng phá sản, xuống cấp nơi khai thác.
- lấn ranh, mua rừng, khai thác quặng Bauxite với giá rẻ mạt của Việt Nam;
- xây đập thủy điện trên sông Lan Thương (tên Trung Hoa của sông Mékong), “lợi bất cập hại”– ảnh hưởng đến giao thông hàng hải, thủy lợi, bất chấp mọi phá phách thủy lộ, ô nhiễm môi sinh nơi dòng dưới, tức Mékong [Mae Nam Khong], tại Lào, Thái Lan, Kampuchia và dòng Cửu Long, tại Nam Việt;
- cũng như đã tìm cách phóng đường tầu cao tốc Đông Phương nối Thượng Hải, Nam Kinh với Malaysia, Singapore, mà không ngần ngại lấn đất Myanmar [Miễn Điện], Lào, Kampuchia, Thái Lan. Dân làng Bopiat, Boten, miền bắc nước Lào là những nạn nhân đầu tiên của chương trình phóng đường sắt, khi công trình này phá ấp, cắt làng cốt để thực hiện quyền lợi khai mở mạch sống thăng cấp của Trung Quốc.
Đường lưỡi bò
II. Múa Rối Biển Đông Song Cực
Trên đất liền, Trung Quốc sẵn sàng lấn át, xâm nhập
dù chưa minh thị xoá bỏ ranh giới giữa các quốc gia lân cận, như họ từng làm
với Mông Cổ và Tây Tạng. Dù sao, Chu Ân Lai đã từng thổ lộ: “Nước chúng
tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong đảng Lao Động Việt Nam mở
cho một con đường xuống Đông Nam Á”.
Nhưng tham vọng trường kỳ của Trung Quốc thực sự là
độc chiếm Biển Đông mà thuật ngữ của họ chỉ định là Nam Trung Quốc Hải (南中國海), hay gọi tắt là Nam Hải
(南海), vì đối với Trung Quốc mặt biển đó là thủy lộ giao thông hàng hải, khai thác hải sản và bề thế chiến lược quân sự; còn đáy biển và thềm lục địa là cơ sở khai thác tài nguyên thiên nhiên, dầu hoả và khí đốt mà nhu cầu tân trang trong
nước và nền kỹ nghệ cấp tốc của họ đang đòi hỏi. Do đó, Trung Quốc thường
tuyên bố lợi ích của họ ở Biển Đông là một trong những “lợi ích cốt lõi”.
1.
Thủ Đoạn Xâm Chiếm Biển Đông
Từ năm 1946, Trung Quốc liên tục mưu đồ chiếm đoạt
Biển Đông qua nhiều giai đoạn và hình thức tranh giành khác nhau:
- Tháng 12-1946, Tưởng Giới Thạch cử binh sĩ ra “giải giới quân đội Nhật” tại Hoàng Sa và Trường Sa, theo sự thỏa thuận của các nước đồng minh chống Nhật.
- Nhân dip này, một số nhà địa lý và sử học gia Trung Hoa cùng nhau phác họa thủy đồ “11 đoạn”, in ấn vào tháng 10, năm 1947. Sau khi lên nắm chính quyền, Chính phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa [CSTQ] đã phê duyệt bản thủy lộ này dưới hình thức “đường 9 đoạn” vào năm 1953, trong khi quân đội của Tưởng Giới Thạch đã rút khỏi đảo Phú Lâm. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “đường lưỡi bò” lấn át toàn cõi Biển Đông.
- Hai năm sau Hiệp Định Genève [1954], khi Quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương [1956] Việt Nam Cộng Hòa nhận lãnh quyền quản trị các đảo phía tây của Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó công hàm do Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng ký vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, để trả nợ viện trợ quân sự TQ thời đánh chiếm Điện Biên Phủ, là vô hiệu, vô giá trị, vì chính phủ ông ta không có thẩm quyền lãnh thổ để công nhận lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý, áp dụng cho cả Quần đảo Tây Sa (Xisha/QĐ Hoàng Sa/ParacelIslands] và Quần đảo Nam Sa (Nansha/Quần đảo Trường Sa/Spratly Islands, vốn nằm phía nam vĩ tuyến 17.
- Trong những ngày 17/1-20/1/1974, Trung Quốc xua lực lượng hải quân tới chiếm các đảo thuộc phía tây quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hoà. Tàu chiến Hoa Kỳ có mặt ngoài khơi đã làm ngơ cho Trung Quốc hành động, lấy cớ Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ký Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972, và sau đó Hoà Đàm Paris, 1973.
- Trung Quốc vẫn tùy tiện đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam kiểm soát, và đột ngột chiếm đóng đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Su Bi trong tháng 4, 1988. Nhưng mãi tới tháng 2, 1995, Trung Quốc mới thực sự chiếm cứ toàn quần đảo Trường Sa.
- Bắc Kinh chính thức hóa thủy đồ hình chữ U, khi nhà cầm quyền này đưa bản đồ đường 9 đoạn hình lưỡi bò vào văn kiện gửi Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa mở rộng, ngày 7 tháng 5, 2009.
- Ngày 26/5/2011, 3 tàu Hải giám của Trung Quốc thực hiện một vụ gây hấn trắng trợn khi cắt đứt cáp thu địa chấn của tầu Binh Minh 02 đang hoạt động cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên), nằm trong vùng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
- Từ ngày 8/4 đến 18/6/2012, diễn ra cuộc đối đầu tại vùng bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham giữa Trung Quốc với Philippines.
- Ngày 21/6/2012, Trung Quốc thành lập “thành phố Tam Sa” (thuộc Hoàng Sa – Việt Nam) và Khu cảnh bị, nhằm thiết lập cứ điểm tại Biển Đông để kiểm soát Biển Đông. Việc thành lập “thành phố Tam Sa” và Khu cảnh bị Tam Sa là bước phát triển mới của chiến lược bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tam Sa mở đầu giai đoạn mới Trung Quốc tranh đoạt Biển Đông, tích cực tranh chấp, tích cực khai thác, tạo ra những xung đột lợi ích ngày càng gay gắt với các nước trong khu liên hệ.
- Việc 6 triệu hộ chiếu mới của TQ được in hình bản đồ “đường lưỡi bò”
gặp phải sự phản đối của nhiều quốc gia trên thế giới vì bản đồ “đường
lưỡi bò” được in trong hộ chiếu mới, vi phạm chủ quyền các quốc gia trong
khu Đông Nam Á.
- Đối với Việt Nam, Trung Quốc vẫn chủ trương tranh chấp mạnh ngoài Biển Đông, vì họ biết rõ lãnh tụ CSVN sẵn sàng nhượng bộ — “thà mất nước, chứ không mất đảng.”
2. Kỹ
Thuật Xâm Lăng: Xả Láng trong Khu Vực; Tháu Cáy & Mặc Cả Song
Phương giữa hai Siêu Cường Quốc
Xả
Láng
Từ nhu cầu tìm dưỡng khí sinh tồn tới xả láng,
lộng hành phóng đại “lưỡi bò” liếm láp toàn khu vực Đông Nam Á, cụ thể là việc
điều động các tầu hải quân đến hăm doạ các nước trong khu vực tranh chấp ở
Biển Đông, hay ngoan cố há miệng rồng nuốt chửng vô tội vạ những cọc mốc
ranh giới, rừng già, đất đỏ bauxite, đất làng của những người đàn em thấp kém,
quỵ luỵ, thì “quyền lợi quốc gia” theo xã hội chủ nghĩa - made in China
- của Trung Quốc hoàn toàn bất xứng, bất chính, chẳng khác gì chủ
nghĩa bá đạo cướp bóc, xâm lăng thổ phỉ của lũ gian tặc, hải tặc.
Tại khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc không lộ liễu
chiếm đoạt các nước láng giềng dưới hình thức “thuộc địa”, nhưng sẵn sàng thu
hút các tiểu quốc này thành các “tỉnh tự trị” trong cộng đồng thịnh vượng Trung
Hoa, dưới sự quản trị và bảo trợ kinh tài của họ. Hơn nửa thế kỷ nay,
CSVN thu gọn trong vòng kiểm toả chính trị và kiểm soát kinh tài đó, như một
sao ảnh thu gọn, hay dấu ấn mực đỏ của cơ sở Hán Cộng. Lào, Kampuchia chỉ
là những cửa ngõ phóng lộ xuyên Nam. Kể cả Thái Lan cũng sẵn sàng chia sẻ
cơ hội ăn có với Hán Cộng.
Tháu
Cáy/Xì Xằng
Vậy hiện tượng lũng đoạn thế lực chính trị kinh tài
trong khu vực không nhằm đối tác với các tiểu quốc giáp ranh, mà thật ra
là để chuẩn bị đương đầu với Hoa Kỳ, vốn là đương kim đệ nhất đại cường quốc,
trong giai đoạn khai triển ảnh hưởng bá chủ và thi thố thống trị Đông Nam
Á và có thể cả toàn cầu trong tương lai … phóng đại.
Thật rõ ràng, từ đầu thế 21, trên đấu trường kinh
tài và khai thác toàn cầu, Hoa Kỳ và Trung Quốc duy trì một thế lực độc quyền
nhị cực [bipolar Oligopoly].[13] Cả thế giới, trong đó có
Đông Nam Á, đang tùy thuộc vào cung cách quản trị tài lực lẫn kỹ thuật sản xuất
và phân phối nhu yếu phẩm dưới chướng của hai “đầu nậu” siêu đẳng này: một tham
[Hoa-Kỳ], một gian [Trung Quốc].
Vậy hành động của Trung Quốc nhằm lũng đoạn Đông Nam
Á về mặt ảnh hưởng và chiếm đoạt cơ sở trục lợi môi trường trên đất liền cũng
như nơi Biển Đông và thềm lục địa có tác dụng [a] thách đố và thử lửa Hoa Kỳ mà
Trung Quốc coi là đối thủ đáng kể trong cuộc chạy đua giành giật quyền lợi nên
[b] đã lớn tiếng công khai vạch làn ranh của quyền lợi cốt lõi mà Trung Quốc
muốn chấp hữu và rao hàng từ Nam Hải (南海), tức Biển Đông.
Ngày 23/11/2013, Trung Quốc đơn phương tuyên bố
thiết lập “Vùng Nhận Dạng Phòng Không” (Air Defense
Identification Zone, viết tắt ADIZ)[14] trùng lấp lên không phận của
Nhật Bản và Nam Hàn khiến Hoa Kỳ phải đưa pháo đài bay B-52 bay qua đây để phản
đối hành động nguy hiểm này và đồng thời hỗ trợ tinh thần cho đồng minh.
Mặc
Cả/Xí Gạt/Xì Phé
Do đó cách vơ vét quyền lợi và thế đứng của Trung
Quốc trong cuộc thi đua kiểm soát lãnh thổ và lãnh hải tại Đông Nam Á có tính
cách lớp lăng. Đó là [a] khởi đầu bằng cách chơi xả láng, làm chuyện “đã
rồi”; [b] kế đến là tháu cáy, rêu rao với đối tác có “máu mặt” [Hoa Kỳ] để đòi
hỏi tối đa, yêu sách tới tận cùng, mong [c] sau này đạt thế “thượng thưởng”
trong việc mặc cả, cao tay chia chác với độc thủ Hoa Kỳ. Đó là thủ đoạn
“ăn thua đủ” trong canh bạc du thủ, bất bằng, bát nháo tại Đông Nam Á.
Tuy nhiên, cựu ngoại trưởng Mỹ Hilarry Clinton
từng coi những đòi hỏi của đường lưỡi bò trên Biển Đông là không có giá trị,
còn Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain khẳng định, đường lưỡi bò không có cơ sở pháp
lý. Cũng như gần đây, Bộ Giao thông Nam Hàn nói các hãng hàng không
của họ sẽ không công nhận vùng ADIZ của Trung Quốc. Phía Nhật Bản cũng tuyên bố
tương tự.
III. Lợi và Hại Của Cuộc Thi Thố Thế Lực Viễn Biên
Ngắn
Hạn: Những Gì Hiển Nhiên Trước Mắt
Đối với Trung Quốc, cuộc chạy đua phô trương lực
lượng viễn chinh trên lãnh thổ và lãnh hải chấp hữu ngoài biên cương có
nhiều điểm lợi tức thì.
Trước tiên là cung cấp ngay một số công ăn việc làm
theo diện xuất cảnh lao động bằng bạo lực quân sự hay đặc nhiệm kinh tài, khai
thác viễn biên.
Việc đầu tư cơ sở và nhân lực biệt phái tại các địa
điểm kinh doanh tân tạo hay các khu chiến thuật mới chiếm cứ có tác dụng giải
toà áp lực nhân dân chống đối tại Trung Quốc, khi tác động viễn chinh khai
khẩn, hứa hẹn phát triển bề thế sinh tồn cũng đòi hỏi sự gia tăng của áp lực an
ninh quân phiệt trong nước. Chế độ cộng sản nhờ vậy bớt lo lắng, được thể tự
vệ, câu giờ củng cố đảng vụ.
Song song, Hoa Kỳ cũng bắt đầu e ngại Trung Quốc,
tìm cách về lại Châu Á một mặt để be bờ, kiềm chế Trung Quóc, mỗi lúc lộ diện
vong ân, bất nghĩa, bất tín; mắt khác cũng để tái đầu tư hay phát động lại cơ
sở và ảnh hưởng kinh tài tại Châu Á, vốn nhiều đặc sản và cũng là môi trường
hứa hẹn tiêu thụ mà Hoa Kỳ đã ngoảnh mặt bỏ lỡ cơ hội khai khẩn trước đây, để
hoà hoãn với Nga Hoa, sau Hiệp Định Paris, 1973.
Riêng việc Tổng Thống Obama và Ngoại Trưởng Clinton
úp mở cảnh cáo Trung Quốc hay công khai tuyên bố “Thế kỷ 21 là thế kỷ Thái Bình
Dương của Mỹ”[15] cũng đủ gây lại niềm tin cho các đồng minh trong khu
vực và sự phấn khởi tại Hoa Kỳ, với triển vọng khôi phục nền kinh tế đang suy
thoái. TT Obama được tái đắc cử phần nào nhờ vào việc định hướng đầu tư làm nhà
buôn súng đạn, quân nhu, chiến cụ, hay kỹ thuật tiền phong cho vùng Châu Á-Thái
Bình Dương, thay vì làm cảnh sát dã chiến tại Trung Đông.
Cái “Hại” tức thì trong khu vực là mấy tiểu quốc,
dẫn đầu là Việt Nam, rồi Lào, Kampuchia [Cao Mên] trở thành những con vật thí
mạng cùi cho các phòng thí nghiệm nóng, chỗ tham lam, chỗ gian lận, nhưng cùng
một lò độc đoán vị kỷ: có khi nào các nhà bác học hỏi ý mấy con chuột chù, con
ễng ương, ếch nhái, con khỉ đỏ đít cảm tưởng ra sao, mong muốn gì trước khi
được [bị] đem vào phòng thí nghiệm, mổ bụng, xẻ đầu, bẻ tay, cưa chân?
Việt Nam, Lào, Kampuchia từng bị xẻ thân, cướp hồn như vậy, từ thế hệ này sang
thế hệ khác, cũng chỉ vì ở chung cái thế “địa-độc” [địa thế chính trị/géopolitique],[16]
ngã tư bão tố, hưởng ít, chịu nhiều: nơi mà lãnh tụ địa phương thì hèn hạ; đầu
đảng cầm quyền thì phục tùng ngoại bang; dân thì anh dũng, miệt mài chịu
đựng tới độ ù lì, vô cảm.
Trung
Hạn: Những Gì Ắt Phải Xẩy Ra
Tác phong bát nháo, kiêu căng của Trung Quốc dần dà
đã làm các quốc gia trong khu vực bắt đầu tỏ thái độ bất bình, lo ngại:
1. Dưới sự quan sát và
thế trợ lực của Hoa Kỳ, Philippines khẳng định
lập trường cứng rắn với Trung Quốc: [a] tố cáo tàu và trạm “canh gác” của Trung
Quốc xâm nhập lãnh hải tại vùng bãi cạn Scarborough;[b] chính thức đổi tên vùng
biển tranh chấp với Trung Quốc là Biển Tây Philippines;
2. Ngoại trưởng
Indonesia Marty Natalegawa đã khẳng định
loại hộ chiếu mới của Trung Quốc in chìm hình bản đồ với đường 9 đoạn bao gồm
các quần đảo tranh chấp ở Biển Đông là “xảo trá” và “phản tác dụng”.
Philippines và cả Việt Nam cũng đã quyết định không đóng dấu thị thực vào quyển
hộ chiếu mới của Trung Quốc, bên trong có in tấm bản đồ lưỡi bò khẳng định chủ
quyền của Bắc Kinh trên hầu như toàn bộ vùng Biển Đông.
3. Chính quyền cứng rắn
của tân thủ tướng Nhật Shinzo Abe đang tăng cường
bảo đảm an ninh vùng biển quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản thấy họ
phải chọn con đường tự bảo vệ. Các tàu chở dầu của Nhật Bản có thể cải biến
thành mẫu hạm nhanh chóng, đội ngũ nhân sự cấp sĩ quan lái thương thuyền và
hàng không dân sự được huấn luyện như các sĩ quan Hải quân và Không quân.
Một Nhật Bản ra khỏi ràng buộc của bản Hiến Pháp “hòa bình”, nếu được tái
võ trang, sẽ giúp làm cho các đụng chạm giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ bớt nảy lửa.
Chính sách Hoa Kỳ chuyển hướng về Á châu không có nghĩa là chuyển một ít
quân đến Úc châu, đưa 60% hạm đội đến Tây Thái Bình Dương mà chính yếu là thay
đổi cách nhìn chiến lược trong đó Nhật Bản cần được xem là một yếu tố tích cực
chứ không phải là một con cờ nép bóng dưới sự che chở của Hoa Kỳ.
4. Nhật Bản cũng sẵn
sàng trợ giúp Miến Điện nhằm mục đích kềm
hãm ảnh hưởng của Trung Quốc. Việc Tokyo hỗ trợ Miến Điện có thể đóng một vai
trò tích cực trong việc hậu thuẫn cho sự thay đổi chiến lược của Mỹ, đó là dân
chủ hóa và phát triển kinh tế của Miến Điện. Vào cuối năm ngoái, ông Barack Obama
đã trở thành tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên đi thăm Miến Điện, một dấu hiệu
chứng tỏ sự khôi phục uy tín đáng kể của nước này trên trường quốc tế, và chính
sách chuyển trục sang châu Á của Washington.
5. Hải quân Ấn Ðộ cũng
sẽ bảo vệ các nỗ lực dò tìm dầu khí với Việt Nam tại Biển Đông, chống những hành động hiếu chiến của Trung Quốc. Trung Quốc hiện đại
hóa lực lượng hải quân, đã làm tăng những quan ngại của Ấn Ðộ, và như tất cả
các thế lực hải quân khác trong khu vực, Ấn Ðộ đang chuẩn bị để đối phó với
tình huống xấu nhất.Thái độ hiếu chiến của Bắc Kinh trong nỗ lực theo đuổi các
đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông sẽ buộc Ấn Ðộ phải hợp tác chặt chẽ hơn với
Việt Nam và Philippines, gián tiếp với Hoa Kỳ.Trong những năm tới đây, sự kình
địch này tiếp tục tiến triển theo hướng gia tăng hay giảm dần sẽ có ảnh hưởng
rất lớn tới các hệ quả từ chiến lược hướng Á của Mỹ và cấu trúc cân bằng mới
tại châu Á. Quan hệ đồng minh với Washington do vậy có thể coi là điều tự nhiên
đối với Delhi, nhưng Ấn Độ vẫn phải tránh khiêu khích không cần thiết với Bắc
Kinh.
Vô hình chung, tác phong gây hấn của Trung Quốc
dần dà đã đẩy các quốc gia trong khu vực nghiêng về phía Hoa Kỳ,
mỗi lúc trở thành quốc gia đồng minh khả vọng, có thể trông mong được.
Ngoài ra, thái độ kiêu binh của Trung
Quốc đã giúp Hoa Kỳ lấy cớ đẩy mạnh chương trình tân trang vũ
khí và quân bị, tạo dựng thêm chiến hạm, chiến thuyền loại giáp chiến biệt kích
[Littoral Special Operation Combat], thường được dùng để chuyển quân
biệt kích Navy SEALs trong những cuộc giáp chiến ven bờ biển. Đó là dịp
may giúp chính phủ Hoa Kỳ có cơ hội nuôi dưỡng các đại cơ sở chiến lược về
quốc phòng, như trình bầy phía trên.
Ngoài ra còn cho thấy thế bá chủ của Trung Quốc
và Hoa Kỳ tại Đông Nam Á và Thái Bình Dương không thể thực hiện dưới dạng độc
quyền nhị cực [G2-bipolar Oligopoly] như các siêu cường quốc mong muốn,
mà phải chuyển thành thế tam cực [G3-TQ/HK/Ấn], hay tứ cực [G4-TQ/HK/Ấn/Nhật]
hay tốt hơn cả là thế Đa Cực liên hệ tới khu vực, trong đó ít ra phải có
vai trò tích cực của Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)[17] và
các quộc gia liên đới để thực sự ứng dụng thuật “Mặc Cả Đa Phương”[18] trong
canh bạc sinh tồn và thịnh vượng toàn cầu, nay tập trung tại Châu Á.
Dài
Hạn: Theo Tiến Hoá Tự Do, Công Bằng Nhân Bản
Canh bạc ngày nay có phần khác với mãnh lực chủ
nghĩa Đế Quốc Trọng Thương của những thế kỷ trước khi chính sách bá chủ kinh tế
thu lời một chiều đã dần dà chuyển nhượng tới chính sách đa phương hưởng lợi,
giữa những đối tác có quyền lợi liên hệ, như định lý “phải trả lại cho César
những gì thuộc về César”:[19] Bênh vực quyền lợi theo định hướng phát
triển toàn cầu là cần thiết, nhưng vị trí khu vực và dân tộc chủ nghĩa vẫn là
bàn đạp, là giải đáp cho mọi vấn nạn, cũng như mọi hy vọng cấu tạo phát triển
tương xứng liên quan tới khu vực và quốc gia quy định.
Do đó chúng ta cần rõ hiện tượng thuần kinh tế không
còn đơn giản, biệt lập, mà cần sự hỗ trợ của áp lực chính trị từ những thành
phần đối tác, dù nhỏ nhoi, nhưng vẫn là những thành tố chiến lược và chiến thuật
“bất khả ly”: bàn tay năm ngón, thiếu ngón nào, cũng chênh lệch “nắm tay”, cũng
làm suy giảm bề thế toàn diện của công thức, của giá trị và hữu dụng chung.
Thuật “Mặc Cả Đa Phương” sẽ đưa tới định lý “Cân
Bằng Nash” [Nash Equilibrium].[20] Theo Nash, qua sự lựa chọn của chiến
lược hỗn hợp mà kết quả cho mỗi người chơi [đối tác tranh chấp] là các giá trị
kỳ vọng lớn nhất có thể ứng với chiến lược hỗn hợp của các người chơi khác, thì
các quốc gia trong cuộc tranh chấp về Biển Đông phải áp dụng chiến thuật sao
cho sự lựa chọn là tối ưu nhất, để đạt tới một thế cân bằng khả chấp: khi thiếu
một bước là thiệt, thêm một bước là “hố“ và mất cả. Sự tính toán thông
minh đặt ở chỗ biết tới, biết yêu sách, mặc cả hữu hiệu và biết ngưng đúng lúc,
đúng mức cần thiết cho mình, một cách thực tế.
Căn cứ vào trò chơi “mặc cả” kinh bang tế thế khu
vực một cách thông minh có hứa hẹn một giải pháp cân bằng theo định lý Nash,
thì hiểm hoạ chiến tranh giữa các siêu cường quốc sẽ không xẩy ra. Nếu
các tiểu quốc cũng thông minh biết dựa lưng đúng chỗ, thì cũng thoát cảnh
“không chết, cũng bị thương”.
Sau cuộc thi đua vũ khí thời chiến tranh lạnh, Nga
Xô đã phải gác kiếm, khép xưởng ý thức hệ chủ trương bom đạn trường kỳ, để về
lại cuộc sống bình thường của con gấu[21] sở thú hay của gánh “xiếc”
làng.
Nay cuộc thi thố quyền lực của Trung Quốc tới mức bá
quyền hung hăng con bọ xít không thể tự nó trở thành cơn gió tụ phấn kết
hoa, đem lại mùa gặt hái đáng kể. Mà chỉ là những cuồng phong phá phách làng
xóm, phương hại tới môi trường sinh sống của khu vực, của toàn cầu. Vây, kỹ
thuật thống trị và mưu đồ xâm lăng Hán cộng có triển vọng phá sản khi biên
cương tự tan; ngân hàng, bất động sản tự đổ; xe cộ tự móp; máy bay tự rớt; tàu
hoả tự đâm; tàu bè tự chìm; sản phẩm kỹ nghệ, hàng hoá tiêu thụ, thực phẩm,
thuốc men tự phế thải. Lúc đó, chế độ Trung Cộng sẵn sàng tự nổ, tự hủy,
nhường chỗ cho quân bình quyền lực[22] và sinh hoạt dân chủ đa nguyên,23] trọng
sinh và thượng tôn luật pháp.
Lúc đó, hoà bình, thịnh vượng mới thực sự khai triển
một cách tự nhiên, quân bình, toàn diện tại Đông Nam Á và từ đó ảnh hưởng mỹ
mãn tới đà tiến hoá công bằng nhân bản toàn cầu.
IV. Kết Luận
Biển Ðông là điểm nóng chiến lược tại Đông Nam Á,
một mặt đòi hỏi sự đoàn kết khu vực để tự bảo vệ trước mọi mưu toan xâm lược
thôn tính của bá quyền Hán Tộc, mặt khác đốc thúc hội nhập cộng đồng pháp
trị toàn cầu để thực thi công bằng quốc tế, theo định hướng kết sinh hoà bình
thịnh vượng, trên căn bản dân chủ tự do chân chính.
Để đối phó với thế lực bá chủ thôn tính của Trung
Quốc, các quốc gia lâm nạn hay thất thế có những biện pháp nào để giải toả áp
lực xâm lược hiện hữu?
Trước hết, về mặt căn bản quốc tế công pháp, mỗi
quốc gia đều có chủ quyền ngang nhau trong cộng đồng thế giới đa dạng; đều có
chính nghĩa bảo trọng quyền lợi quốc gia mình một cách tương xứng, đúng mức,
nhờ đó thực hiện công bằng quốc tế.
Vậy trước hanh vi xâm lược của Trung Quốc chủ trương
thu nhập toàn cõi hải phận đang tranh chấp, các quốc gia giáp biển phải thực
hiện một số biện pháp đối tác như sau:
1. Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cần
dấn thân hội nhập trong thế liên đới hỗ trợ phát triển và sinh tồn, vừa để thực
hiện quyền lợi quốc gia mỗi bên, vừa để bảo trọng quyền lợi chung của toàn khu
Đông Nam Á. Đây là cơ hội thuận lợi để các quốc gia thành viên của ASEAN
[a] thực thi sứ mạng [b] và cập nhật hoá trách nhiệm [c] của Tổ chức.
2. Khai triển sứ mạng của tổ chức ASEAN, cần
củng cố liên minh khu vực, từ ngoại giao tới an ninh khu vực, nhằm hợp lực ngăn
cản tức khắc và toàn diện chiến lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc. Nếu để
quá lâu, hiện trạng lằng nhằng giây mơ rễ má này sẽ trở thành một thực trạng
chấp hữu chẳng đặng đừng, khi hành vi quấy nhiễu, liên tục chiếm đoạt, độc
quyền vây biển, lấn đất, lấn đảo đã kết đủ cơ sở và hiệu lực.
3. Khước từ mọi cuộc thảo luận song
phương giàn xếp chia chác tay đôi, vì hành động xé lẻ như vậy sẽ vô cùng bất
lợi, đồng thời mặc nhiêm công nhân vị trí chủ thể của Trung Quốc. Mọi
thảo luận trên phải có tính cách đa phương, thực hiện theo diện liên đới hay
liên hiệp giữa tất cả các quốc gia có quyền lợi chung về Biển Đông Nam Á, căn
cứ vào vị thế lãnh thổ và lãnh hải của mỗi quốc gia liên hệ.
4. Cần tôn trọng và đôn đốc Công ước LHQ về
Luật Biển 1982, United Nations Convention on Law of the Sea, viết
tắt UNCLOS, vốn là cơ chế pháp lý quốc tế kiểm soát trật tự toàn
cầu trên và dưới mặt biển cả.[24]
5. Cần huy động thế liên kết toàn cầu, căn cứ
vào [a] chủ trương quốc tế giải quyết xung khắc bằng giải pháp đa phương và ôn
hòa, [b] trên căn bản bảo vệ tự do lưu thông hàng không và hàng hải trong hải
phận quốc tế và không phận biển Đông, mà Hoa Kỳ sẵn sàng bênh vực, để thực thi
trật tự thịnh vượng hoà bình chung.
Riêng
đối với Việt Nam,
Cần bảo vệ quyền lợi quốc gia, từ Biển Đông tới
bờ cõi, từ biên giới tới khắp môi trường sinh tồn, kể cả mặt hải sản tại Biển
Đông để thực thi chủ quyền dân tộc, một cách chân chính, toàn diện và hữu
hiệu.
Vậy, đã tới lúc CSVN tự giải thể, chuyển thẻ đỏ
thành thẻ xanh, tự ý xé toạc giấy tuỳ thân Mác-Xì-Lê-Mao-Hồ để bớt đi cái nhục
nhã làm bô khạc nhổ đờm Hán tộc, do cái “lưỡi bò” thối tha, ung nhọt văng
tới.
Đã tới lúc CSVN chấm dứt “sinh thái” ác với dân, hèn
với giặc và nhất quyết không còn làm đặc viên KGB theo kinh nghiệm ông Hồ, hay
làm mật vụ, gián điệp Trung Cộng theo chân mấy quan thái thú Nguyễn Phú Trọng,
Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang.
Đã tới lúc CSVN hồi hướng dân tộc, tự giác nhường
chổ cho một chính thể dân cữ với một đoàn ngũ người Việt thuần túy:
- biết lo cho chính nghĩa quốc gia, phẩm giá và an sinh dân tộc;
- biết tranh đấu, mặc cả, tranh thủ cho quyền lợi vẹn toàn, chính đáng của Nước Việt;
- biết ứng dụng thế kết sinh lực lượng khu vực căn cứ vào sứ mạng của Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] nhằm ba trục [a] cộng đồng an ninh chính trị khu vực, [b], cộng đồng kinh tế khu vực, và [c] cộng đồng văn hoá, xã hội khu vực,[25] như các nước Đông Nam Á và khối ASEAN đã quyết tâm đấu tranh ngoại giao về vấn đề Biển Đông, dẫn đến việc ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc.
Tại
Hải ngoại,
Mọi công dân thế giới tự do gốc Việt,
còn ý thức và tôn trọng vận mệnh nước Việt Nam, cần đóng
góp vào việc:
[a] hệ thống hoá áp lực chính trị với các tổ chức và
chính quyền sở tại [Hoa Kỳ, Đức, Nhật, Âu, Úc] để cùng các cơ sở điều nghiên
chiến lược, các viên chức đặc trách ngoại giao, kinh tài, quân sự, thấy rõ thế
“chân vạc” giữa lực lượng quốc tế, khu vực và đơn vị quốc gia đương cuộc để
nhận trách nhiệm bảo trọng an ninh, chính trị, văn hoá, kinh tế, xã
hội ở mức công bằng, khả chấp tại môi trường và khu vực;
[b] đòi hỏi mọi sự hỗ trợ trực tiếp của Hoà Kỳ, Âu,
Úc hay gián tiếp qua Ấn Độ, Nhật Bản dành cho Việt Nam, kể cả diện quân sự,
phải ứng dụng song song với triển vọng dân chủ hóa và phát triển kinh tế của
Việt Nam, có lợi cho dân tộc Việt, hơn là chỉ nhằm củng cố địa vị của nhà cầm
quyền, như họ đã từng làm trước đây, thời đệ Nhất và đệ Nhị Cộng Hoà, tại Miền
Nam Việt Nam;
[c] về mặt công lý và nền tảng pháp lý, cần lượng
giá chính xác và đúng mức quyền lợi quốc gia, liên quan tới ranh giới lãnh thổ,
lãnh hải, tới phần sở hữu tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tại Biển Đông,
căn cứ vào tài liệu lịch sử, hành chính, pháp lý đối chiếu và thực trạng chấp
hữu, quản thủ tài sản quốc gia; cũng như căn cứ vào luật quốc tế công pháp và
Luật Biển liên quan tới nội vụ.
Vậy, chúng ta, người dân Việt trong và ngoài nước có
tư cách và quyền đòi hỏi đối phương, giặc ngoại bang và nội xâm, phải
trả lại cho Việt Nam những gì của Việt Nam, không thừa, không thiếu.
Đồng thời cũng phải trả lại cho dân tộc Việt
Nam những gì của người dân Việt, không thiếu, không thừa. Đó
là quyền tự quyết của người dân, là nền dân chủ chính danh, chính
nghĩa của họ.
TS
& LS LƯU NGUYỄN ĐẠT
---------------------------------
[1] Realpolitik/real politics
[2] financial military industrial complex or military–industrial–congressional complex, refers to policy and monetary relationships which exist between legislators, national armed forces, and the military industrial base that supports them. These relationships include political contributions, political approval for military spending, lobbying to support bureaucracies, and oversight of the industry. It is a type of iron triangle. The term is most often used in reference to the system behind the military of the United States, where it gained popularity after its use in the farewell address of President Dwight D. Eisenhower on January 17, 1961, though the term is applicable to any country with a similarly developed infrastructure.
[3] Defense/Pentagon
[4] Energy Services Group
[5] conflict justification
[2] financial military industrial complex or military–industrial–congressional complex, refers to policy and monetary relationships which exist between legislators, national armed forces, and the military industrial base that supports them. These relationships include political contributions, political approval for military spending, lobbying to support bureaucracies, and oversight of the industry. It is a type of iron triangle. The term is most often used in reference to the system behind the military of the United States, where it gained popularity after its use in the farewell address of President Dwight D. Eisenhower on January 17, 1961, though the term is applicable to any country with a similarly developed infrastructure.
[3] Defense/Pentagon
[4] Energy Services Group
[5] conflict justification
[6] containment strategy
[7] cold war, Korea war, Vietnam war,
[8] Desert Storm war, Iraq war, Afghanistan war
[9] Arab Springs.
[10] preventive war
[11] September 11 attacks
[12] raison d’être/raison d’État
[13] bipolar Oligopoly. A situation in which a particular market is controlled by a small group of firms. An oligopoly is much like a monopoly, in which only one company exerts control over most of a market. In an oligopoly, there are at least two firms controlling the market.
[14] “Vùng Nhận Dạng Phòng Không” (tiếng Anh: Air Defense Identification Zone, viết tắt tiếng Anh: ADIZ) là vùng bầu trời do một quốc gia tự ấn định ra và đòi hỏi mọi máy bay dân sự xâm nhập vùng này phải nhận dạng, minh định vị trí, và chịu sự kiểm soát của quốc gia đó. Vùng nhận dạng phòng không không đồng nghĩa với không phận nhưng được coi như khu vực song hành với an ninh quốc phòng. Các máy bay bay ngang vùng nhận dạng của một quốc gia phải tuân thủ các yêu cầu chung, chẳng hạn như các máy bay khi vào ADIZ đều phải nộp trước lộ trình bay; thiết lập liên lạc hai chiều đối đáp trong thời gian sớm nhất và chính xác nhất với nước quản lý ADIZ; thông báo vị trí, lắp thiết bị nhận dạng radar thứ cấp, tuân thủ hành lang bay mà nước đó quy định, và khi bay qua các điểm báo cáo, bắt buộc đều phải báo cáo với cơ quan đang quản lý ADIZ. Nếu máy bay nào không tuân thủ các yêu cầu của quốc gia đặt ra vùng nhận dạng thì có thể chịu sự can thiệp của máy bay quân sự của nước lập ra ADIZ yêu cầu nhận dạng và buộc phải rời khỏi khu vực này ngay lập tức và chịu những biện pháp phạt khác.
[7] cold war, Korea war, Vietnam war,
[8] Desert Storm war, Iraq war, Afghanistan war
[9] Arab Springs.
[10] preventive war
[11] September 11 attacks
[12] raison d’être/raison d’État
[13] bipolar Oligopoly. A situation in which a particular market is controlled by a small group of firms. An oligopoly is much like a monopoly, in which only one company exerts control over most of a market. In an oligopoly, there are at least two firms controlling the market.
[14] “Vùng Nhận Dạng Phòng Không” (tiếng Anh: Air Defense Identification Zone, viết tắt tiếng Anh: ADIZ) là vùng bầu trời do một quốc gia tự ấn định ra và đòi hỏi mọi máy bay dân sự xâm nhập vùng này phải nhận dạng, minh định vị trí, và chịu sự kiểm soát của quốc gia đó. Vùng nhận dạng phòng không không đồng nghĩa với không phận nhưng được coi như khu vực song hành với an ninh quốc phòng. Các máy bay bay ngang vùng nhận dạng của một quốc gia phải tuân thủ các yêu cầu chung, chẳng hạn như các máy bay khi vào ADIZ đều phải nộp trước lộ trình bay; thiết lập liên lạc hai chiều đối đáp trong thời gian sớm nhất và chính xác nhất với nước quản lý ADIZ; thông báo vị trí, lắp thiết bị nhận dạng radar thứ cấp, tuân thủ hành lang bay mà nước đó quy định, và khi bay qua các điểm báo cáo, bắt buộc đều phải báo cáo với cơ quan đang quản lý ADIZ. Nếu máy bay nào không tuân thủ các yêu cầu của quốc gia đặt ra vùng nhận dạng thì có thể chịu sự can thiệp của máy bay quân sự của nước lập ra ADIZ yêu cầu nhận dạng và buộc phải rời khỏi khu vực này ngay lập tức và chịu những biện pháp phạt khác.
[15] “Thế kỷ 21 là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ”, Anh Ngọc, VNExpress, Thứ
sáu, 11/11/2011,
[16]géopolitique: rapports entre la géographie et la politique des
Etats.
[17] The Association of Southeast Asian Nations,
commonly abbreviated ASEAN is a geo-political and economic organization of 10
countries located in Southeast Asia, which was formed on 8 August 1967 by
Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore and Thailand.Since then, membership
has expanded to include Brunei, Burma (Myanmar), Cambodia, Laos, and Vietnam.
Its aims include the acceleration of economic growth, social progress, cultural
development among its members, the protection of the peace and stability of the
region, and to provide opportunities for member countries to discuss
differences peacefully.
[18] “Mặc Cả Đa Phương” The Nash-Harsanyi-Selten Pluralistic Bargaining Model
[NHS-PBM]
[19] il faut rendre à césar ce qui appartient à César
[20] Định lý Cân bằng Nash là một định lý trong lý thuyết trò chơi - một nhánh của toán
học ứng dụng. Định lý này được đặt tên theo John Forbes Nash, do ông là người đã đề xướng
ra. Nó được dùng để nghiên cứu các chiến thuật sao cho sự lựa chọn là tối ưu
nhất
[21] Con gấu/The Russian Bear/Tiêu biểu cho Nước Nga. The Russian
Bear is a widespread symbol for Russia, used in
cartoons, articles and dramatic plays since as early as the 17th century, and relating
alike to Tsarist Russia, the Soviet
Union and the present-day Russian Federation.
[22] bargaining equilibrium/balance of power
[23] democratic pluralism/ sinh hoạt dân chủ đa nguyên
[24] The United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS), also called
the Law of the Sea Convention or the Law of the Sea treaty, is the
international agreement that resulted from the third United
Nations Conference on the Law of the Sea (UNCLOS III), which took place
from 1973 through 1982. The Law of the Sea Convention defines the rights and
responsibilities of nations in their use of the world’s oceans, establishing
guidelines for businesses, the environment, and the management of marine natural
resources. The Convention, concluded in 1982, replaced four 1958 treaties.
UNCLOS came into force in 1994, a year after Guyana became the
60th state to sign the treaty.To date, 161 countries and the European Community
have joined in the Convention. However, it is uncertain as to what extent the
Convention codifies customary international law.
[25] The ASEAN Community is comprised of three pillars, namely the ASEAN Political-Security Community, ASEAN Economic Community and ASEAN Socio-Cultural Community. Each pillar has its own Blueprint, and, together with the Initiative for ASEAN Integration (IAI) Strategic Framework and IAI Work Plan Phase II (2009-2015), they form the Roadmap for and ASEAN Community 2009-2015.
[25] The ASEAN Community is comprised of three pillars, namely the ASEAN Political-Security Community, ASEAN Economic Community and ASEAN Socio-Cultural Community. Each pillar has its own Blueprint, and, together with the Initiative for ASEAN Integration (IAI) Strategic Framework and IAI Work Plan Phase II (2009-2015), they form the Roadmap for and ASEAN Community 2009-2015.
In their relations with one another, the ASEAN
Member States have adopted the following fundamental principles, as contained
in the Treaty of Amity and
Cooperation in Southeast Asia (TAC) of 1976:
1. Mutual respect for the independence, sovereignty, equality, territorial
integrity, and national identity of all nations;
2. The right of every State to lead its national existence free from
external interference, subversion or coercion;
3. Non-interference in the internal affairs of one another;
4. Settlement of differences or disputes by peaceful manner;
5. Renunciation of the threat or use of force; and
6. Effective cooperation among themselves.
No comments:
Post a Comment