Nguyễn Quang Duy,
Melbourne
Tác
giả gửi đến Dân Luận
Thứ Năm, 05/12/2013
Ngày 10-12-1948, Liên Hiệp Quốc
long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền làm khuôn mẫu chung cho mọi
quốc gia về quyền làm người. Từ đó, Bản Tuyên Ngôn đã đóng một vai trò tích cực
xây dựng nền văn minh, tự do, dân chủ cho tòan nhân lọai.
Nhưng Điều 4 của Bản Tuyên Ngôn
“Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi.” xét ra vẫn chưa được tích
cực. Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền bài viết này xin phân tích về tình trạng “tự
nguyện” nô lệ vẫn còn khá phổ biến, nhất là tại các quốc gia độc tài cộng sản.
“Tự nguyện” nô lệ
Cuối tháng 11-2013, dư luận xôn
xao về việc ba phụ nữ tự nguyện giam mình trên 30 năm trong một căn nhà ở
phía Nam thành phố London. Họ thuộc một “chi bộ” cộng sản theo đường lối
Mao và do hai đảng viên ông Aravindan Balakrishnan (73 tuổi) và vợ, bà
Chanda (67 tuổi) cầm đầu. Họ tự nguyện chung sống, kiểm sóat lẫn nhau, trung
thành và chịu phục tùng mệnh lệnh của đồng chí Balakrishnan.
Điều cần biết là họ đang sống ở
xứ Anh, một nơi mà quyền làm người được tôn trọng vào bậc nhất. Cũng như các
thành viên một số tà phái, họ “tự nguyện” hay đã bị tẩy não để trở thành
những nô lệ trong một tập thể khép kín.
Tại các quốc gia văn minh việc
tẩy não bị luật pháp chặt chẽ kiểm sóat và khi được phát hiện nạn nhân được tận
tình giúp đỡ. Ngược lại chế độ Cộng Sản vẫn sử dụng các kỹ thuật tẩy não để xây
dựng và duy trì độc quyền thống trị xã hội.
Tẩy Não
Tẩy não là một phương cách kiểm
soát tư tưởng, làm thay đổi nhận thức, niềm tin và bản tính của cá nhân hay của
cả tập thể.
Theo nhà xã hội học Albert D.
Biderman có 8 biện pháp để tẩy não con người. Tám biện pháp này đã được tác giả
Trần Trung Đạo nêu ra trong bài “Bàn
về Tẩy Não”:
Thứ nhứt cô lập, tước đọat
quyền sống và làm cho nạn nhân hòan tòan phụ thuộc vào kẻ tẩy não;
Thứ hai, độc quyền hóa mọi khả
năng nhận thức, buộc nạn nhân phải tập trung chú ý vào mối quan hệ với kẻ tẩy
não;
Thứ ba làm suy yếu tinh thần
đối kháng cũng như làm kiệt quệ thể lực nạn nhân;
Thứ tư là đe dọa, trồng cấy sự
lo lắng, bất an và tuyệt vọng vào ý thức của nạn nhân;
Thứ năm là ban đặc ân để khuyến
dụ sự tuân hành;
Thứ sáu tạo cho nạn nhân cảm
tưởng chống đối chỉ là hành động vô ích;
Thứ bảy là phát triển một thói
quen tuân phục;
Và cuối cùng là chứng tỏ việc
phản kháng chỉ làm thiệt hại cho lòng tự trọng hơn là việc đầu hàng có điều
kiện.
Thử xem 8 biện pháp nói trên
khi áp dụng vào Việt Nam có kết quả thế nào để từ đó chúng ta có thể vạch ra
những công việc cần làm.
“Giải Phóng” miền Nam
Sau 30-4-1975, cả miền Nam được
đưa vào lò tẩy não. Quyền sống của người dân bị tước đọat và bị kiểm sóat chặt
chẽ. Ban ngày mọi người phải làm việc quần quật kiếm sống, tối học tập, hội
họp, kiểm điểm, kiểm thảo, phê và tự phê. Cuối tuần lại lao động xã hội chủ
nghĩa.
Sáng tiếng loa phường đánh
thức, chỗ làm loa tuyên truyền rả rích, tối về lại loa phường. Người dân không
còn chút thời giờ nghỉ ngơi, không một khỏang trống tự do để suy nghĩ.
Mọi phương tiện truyền thanh,
truyền hình, phim ảnh, bích chương, sách báo được sử dụng tối đa cho tuyên
truyền chiến thắng, cho bạo lực cách mạng, cho huyền thọai lãnh đạo, cho thành
quả xây dựng xã hội chủ nghĩa của các nước đàn anh,… mọi thứ được lập đi lập
lại cho đến khi nhập vào tiềm thức của nạn nhân.
Cuộc sống thì căng thẳng với
những cuộc khám xét, bắt bớ, các tòa án nhân dân, các cuộc tử hình công khai,
đánh tư sản mại bản, chống văn hóa phản động, … bạo lực bao trùm và đe dọa đời
sống cả miền Nam.
Những người bị khép vào thành
phần nguy hiểm: sĩ quan, công chức, lãnh đạo tôn giáo, chính trị, xã hội được
đưa vào trại cải tạo. Cải tạo đồng nghĩa với tẩy não. Ở đó cuộc sống và điều
kiện sinh họat thật khắc khe, tiêu diệt mọi ý chí và tẩy não con người một cách
triệt để hơn. Trong bài viết ngắn khó có thể diễn tả được tình hình khi ấy.
Bằng các biện pháp nói trên,
khi đảng Cộng sản đã kiểm sóat đựơc tinh thần của người dân, thì cả một xã hội
xem như tự nguyện trung thành và làm theo mệnh lệnh một cách máy móc không cần
suy nghĩ. Tòan xã hội trở thành một guồng máy phụ thuộc vào những nghị quyết từ
Bộ chính trị đề ra.
Khi đảng Cộng sản cướp được
chính quyền năm 1945 và khi họ tiếp thu miền Bắc 1954 các biện pháp tẩy não
cũng đã được thực hiện tại các vùng họ “giải phóng”. Và cho đến nay các
sách lược tẩy não xã hội vẫn được đảng Cộng sản tiếp tục sử dụng tại các vùng
đang chiếm đóng mặc dầu không còn hiệu quả như trước đây.
Diễn Biến Hòa Bình
Thế nhưng miền Nam trước 1975
xã hội xây dựng dựa trên nền tảng tự do dân chủ, các khái niệm về quyền làm
người đã trở nên phổ quát. Vì thế guồng máy nhập cảng từ Nga Tàu được vận hành
khá hiệu quả tại miền Bắc đã gặp không ít trở ngại. Những chống đối ngấm ngầm,
bất tuân dân sự, bất cộng tác và bỏ nước ra đi là diễn biến buộc đảng Cộng sản
phải liên tục thay đổi sách lược.
Chính thời điểm 30-4-1975,
những người từ miền Bắc vào, những người từ trong vùng “giải phóng” chứng kiến
cuộc sống tại miền Nam đã bắt đầu xét lại. Vì thế không phải chỉ những người
thua trận, cả những người chiến thắng cũng tiếp tục bị đảng Cộng sản tẩy não.
Những thực tế cuộc sống trái
ngược với luận điệu tuyên truyền làm thức tỉnh một số người trước đây xem chủ
nghĩa cộng sản như một lý tưởng để họ đeo đuổi.
Rồi chế độ cộng sản tại Liên Xô
sụp đổ. Chỗ dựa tư tưởng của đảng Cộng sản Việt Nam cũng tan theo mây khói.
Buộc họ phải thay đổi phải cởi trói kinh tế. Nhưng thay đổi nửa vời lại đi vào
vòng bế tắc. Nhờ thế ngày càng nhiều người bên trong guồng máy cộng sản nhận ra
sự thật và tìm cách thay đổi từ bên trong.
Hậu Quả và Phương Cách Tháo Gỡ
Điều đáng tiếc là hầu hết những
người bên trong guồng máy cộng sản vẫn lấn cấn với những điều đã in sâu vào
tiềm thức của họ. Họ vẫn chỉ đòi dân chủ trong đảng, họ vẫn chưa nhận thức được
đất nước cần đa đảng đối lập và dân chủ cho tòan dân. Họ vẫn suy nghĩ ảnh hưởng
ý thức hệ Marx Lenin thay vì suy nghĩ theo ý thức hệ tự do dân chủ.
Phía người dân sự sợ hãi vẫn
còn. Rồi sự bưng bít thông tin khiến đa số người dân vẫn chưa hiểu được những
quyền tự do căn bản đương nhiên họ phải có. Những điều mà chính nhà cầm quyền
cộng sản cũng đã cam kết với thế giới sẽ trao trả cho người dân.
Ngày 12-11-2013, lần đầu tiên
Việt Nam có ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Phó Thủ Tướng
kiêm Ngoại trưởng Phạm Bình Minh hứa rằng sẽ "thực hiện tốt các nghĩa
vụ và cam kết của một quốc gia thành viên Hội đồng Nhân quyền và thành viên
Liên Hiệp Quốc". Khó có thể tin vào lời hứa hẹn nói trên, điều chúng
ta có thể làm là một mặt thúc đẩy họ phải thực hiện các cam kết quốc tế, nếu họ
không thực hiện chúng ta có bằng chứng để tố cáo họ trước công luận.
Nhân Ngày quốc tế loại bỏ bạo
lực đối với phụ nữ 25-11-2013, một nhóm phụ nữ ra mắt một tổ chức dân sự lấy
tên là Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam với tôn chỉ nhằm “… nâng cao nhận thức của
từng cá nhân trong xã hội về phẩm giá con người và những quyền con người cơ bản
của chính mình cũng như của người khác, từ đó góp phần thúc đẩy một xã hội tôn
trọng nhân quyền…”
Sang ngày 26-11-2013 một nhóm
40 người đồng ký tên trên một kiến nghị kêu gọi tổ chức một hội đồng nhằm
thúc đẩy nhân quyền cho Việt Nam.
Các thông tin mạng cho thấy
ngày 10-12-2013 các tôn giáo sẽ tổ chức những buổi lễ cầu nguyện, các anh chị
em trẻ sẽ tổ chức những buổi dã ngọan nhân quyền phổ biến Bản Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền và tạo sự quan tâm đến quyền làm người tại Việt Nam.
Các thành phố đông người Việt sinh sống đều tổ chức những sinh họat khác nhau tạo quan tâm về nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam. Tại Melbourne tiểu bang Victoria sáng thứ ba 10-12-2013 một cuộc Đồng Hành Nhân Quyền bắt đâu lúc 10 giờ sáng trước QUỐC HỘI TIỂU BANG đi bộ vòng quanh thành phố Melbourne để hướng về CÔNG VIÊN DOCKLANDS.
Nói tóm lại Bản Tuyên Ngôn chỉ
là một mẫu mực chung và vẫn còn những điều khỏan như điều 4 chưa tích cực giải
phóng con người thóat khỏi vòng nô lệ tinh thần.
Trường hợp Việt Nam người dân
vẫn còn bị đảng Cộng sản kiểm sóat chặt chẽ rất ít người biết hay quan tâm đến
quyền làm người. Vì vậy việc trước tiên chúng ta cần tạo sự quan tâm, phổ biến
và giáo dục người dân về những quyền tự do căn bản, những quyền mà người dân
đương nhiên phải có, những quyền mà nhà cầm quyền cộng sản đã cam kết với thế
giới phải trao trả cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
4-12-2013
No comments:
Post a Comment