TS Phạm Chí Dũng : Đảng làm sao có thể “hạ cánh mềm”?
Thứ tư, ngày 18 tháng mười hai năm 2013
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng
Đôi lời : Sáng
nay 18/12/2013, một cuộc « đấu tố » đã diễn ra đối với Tiến sĩ Phạm
Chí Dũng – người đã viết Tâm
thư từ bỏ đảng, tại Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh,
nơi anh làm việc. Trước đó, Đảng ủy Viện và Đảng ủy cấp trên đã cố gắng vận
động anh rút đơn « ở lại trong đảng để đấu tranh » nhưng không thành
công, nên đã chỉ thị cho các đảng viên « đấu tố » anh. Tuy nhiên có
đến 60% đảng viên không đồng ý khai trừ đảng TS Phạm Chí Dũng !
Xin phép được giới thiệu đến bạn đọc bài viết của Tiến sĩ
Phạm Chí Dũng về sự kiện này :
Cuộc họp kiểm điểm tôi xảy đến
vào buổi sáng ngày 18/12/2013, hai tuần sau khi tôi viết Tâm thư từ bỏ
đảng và đơn xin ra đảng, được đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển – một
cơ quan trực thuộc Ủy ban Nhân dân TP.HCM nhưng chịu sự lãnh đạo của Đảng ủy
khối dân chính đảng – triệu tập như một hội nghị bất thường.
Vào buổi sáng này, thời tiết
Sài Gòn lại se lạnh bất thường không kém và là một trong những ngày đẹp nhất
trong năm để kỷ niệm Chúa Giêsu ra đời. Không biết có phải vì cảm hứng đột ngột
đó hay không mà ông Phan Xuân Biên, nguyên trưởng ban Tuyên giáo Thành
ủy Thành phố Hồ Chí Minh, một đảng viên cao cấp cùng sinh hoạt trong đảng
ủy Viện Nghiên cứu Phát triển, đã mở đầu cuộc “đấu tố” tôi bằng đánh giá cho
rằng bức tâm tư từ bỏ đảng mà tôi đã “phát tán” lên mạng Internet và báo đài
phương Tây là “lăng nhăng lít nhít”. Tất nhiên, ngay sau đó tôi đã phải đề nghị
vị đảng viên có bình phẩm bất thường đó càng cần phát biểu có văn hóa hơn, nhất
là khi không còn giữ chức trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, đúng với mặt bằng văn
hóa tối thiểu về góp ý và dân chủ cơ sở trong đảng.
Một chi tiết đáng chú ý liên
quan đến văn hóa phản biện trong đảng là chi bộ nơi tôi sinh hoạt đã nêu ra một
“gợi ý” để tôi làm bản kiểm điểm, là hành động tán phát tâm thư từ bỏ đảng và
đơn xin ra đảng của tôi đã vi phạm điều lệ đảng và quyết định số 47 của trung
ương về 19 điều đảng viên không được làm. Trong đó có những nội dung “Nói,
làm trái hoặc không thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của đảng”, và “…tuyên truyền,
tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm
trái với đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước”.
Sự hiện diện không tránh khỏi
của hai cơ quan Đảng ủy khối dân chính đảng và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy trong
cuộc họp này cũng như cuộc họp trước đó với tôi đã không thể tránh cho
tôi cảm giác về một sự hiện diện khác, tuy không lộ diện, của Thành ủy Thành
phố Hồ Chí Minh, đối với toàn bộ chỉ đạo về quy trình tổ chức kiểm điểm và có
thể khai trừ đảng với tôi.
Khuynh hướng và kỹ thuật tổ
chức kiểm điểm đối với tôi cũng khiến tôi nhớ lại trường hợp của đại tá, nhà
văn quân đội Phạm Đình Trọng. Vào năm 2009, ông Phạm Đình Trọng làm đơn
xin ra khỏi đảng. Tuy nhiên người ta đã tổ chức “đấu tố” ông ở địa phương, để 5
tháng sau ông phải nhận quyết định khai trừ đảng. Mục đích của giới cấp ủy là
người bỏ đảng phải bị mất danh dự và răn đe các đảng viên khác không được bỏ
đảng theo.
Có nghĩa là mặc dù theo điều lệ
đảng thì việc xin vào đảng và xin ra đảng là hoàn toàn bình thường, nhiều cấp
ủy đảng vẫn sẵn sàng coi hành động ra đảng là bất thường. Họ sẵn sàng quy chụp
về thái độ chính trị, kể cả thái độ và hành vi “chống đảng”, và thay vì cho
người xin ra đảng “hạ cánh mềm”, họ bắt buộc những người này phải “hạ cánh
cứng”.
Tôi tự hỏi với lối
tư duy và hành xử vẫn quá nặng về độc đoán và áp đặt như thế, liệu đảng có thể
“hạ cánh mềm” trước sự phẫn nộ rất có thể xảy ra của dân chúng trong 4 hay 5
năm tới?
Cũng như với ông Phạm Đình
Trọng, tổ chức đảng Viện Nghiên cứu Phát triển tìm cách thuyết phục tôi “tiếp
tục ở trong đảng để có đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực”, hoặc nhắc
lại “lời thề” của tôi khi xin vào đảng. Nhưng khi nhận ra quyết định ra đảng
của tôi là không thể thay đổi, một số ý kiến khác đã cho rằng tôi phủ nhận tất
cả thành tựu của Đảng Cộng sản Việt Nam và ít nhất tôi đã vi phạm điều lệ đảng
khi tán phát đơn xin ra đảng lên mạng Internet.
Còn với tôi, đã đến lúc phải
bày tỏ quan điểm tách bạch và kiên quyết hơn đối với thái độ quy chụp chính trị
của các cơ quan đảng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã thề trung thành với Đảng
khi xin vào, nhưng lời thề đó chỉ còn giá trị một khi Đảng vẫn còn trung thành
với những người đã sinh ra đảng và đóng thuế cho giới quan chức đảng sinh nhai
và ngự trị trên cái ghế dán nhãn “lãnh đạo toàn diện”. Chứ không phải như hình
ảnh hiện thân đầy rẫy và tàn bạo của các nhóm lợi ích trong đảng như ngày nay,
với một bản Hiến pháp 2013 phản bác lại mọi phản biện của đại đa số nhân dân.
Và vì thế, lời thề duy nhất còn lại với một người từng là sĩ quan quân đội và
bảo vệ an ninh như tôi chỉ là “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng vì thế, trong bản giải
trình tôi đã nêu rõ: “Trong trường hợp Thành ủy, Đảng ủy khối Dân chính
đảng, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy và Đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển vẫn bảo
lưu quan điểm cho rằng tôi vi phạm điều lệ đảng, tôi buộc lòng phải bảo lưu
quyền công dân được khiếu nại tới các cấp thẩm quyền và quyền thông tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc tế”.
Thâm tâm tôi không hề ngạc
nhiên về những động thái mà tổ chức đảng đã áp đặt có chủ ý đối với tôi, bởi
đơn giản là tôi không sai trong toàn bộ các bài viết và phát ngôn về cái thực
trạng khó có lối thoát của Đảng Cộng sản hiện nay. Nếu Đảng không tự thay đổi
bằng cách tự làm sạch mình và ngó ngàng tới dân chúng, người nghèo nhiều hơn,
không chấp nhận những tiếng nói và chính kiến đa chiều, trái chiều, Đảng sẽ
bị chính dân chúng phủ nhận và thay đổi trong không bao lâu nữa.
Tâm tư này không chỉ là của
tôi, mà còn thuộc về tâm tưởng của rất nhiều đảng viên khác – những người đương
chức trong khu vực nhà nước, lực lượng vũ trang và giới đảng viên hưu trí.
Có lẽ vì tính phổ biến của tâm
tư ấy mà đã phát sinh một chi tiết đáng lưu tâm không kém trong cuộc họp kỷ
luật tôi: chỉ có khoảng 40% đảng viên có mặt bỏ phiếu khai trừ đảng (10/24
người), trong khi khoảng 60% còn lại bỏ phiếu mức độ khiển trách, cảnh cáo đảng
và không bỏ phiếu. Trong khi trước cuộc họp xét kỷ luật này, một số người quen
của tôi nhận định rằng với bức tâm thư từ bỏ đảng được “tán phát” lên mạng của
tôi, đó là một “tội” rất nặng trong con mắt của Đảng và chắc chắn đảng ủy, chi
bộ nơi tôi sinh hoạt sẽ phải chịu sức ép rất lớn để có được 100% hoặc gần như
thế phiếu khai trừ đảng tôi.
60% không đồng ý khai trừ đảng
có lẽ cũng là một tỉ lệ xã hội học đảng viên đáng quan tâm trong hiện tình tư
tưởng ngổn ngang của đảng viên hiện thời. Tỉ lệ này cho thấy những đánh giá gần
đây về khả năng có đến 60-80% đảng viên ở vào thế “trung lập” hoặc có nhận thức
và hành động tiến bộ là có cơ sở. Tỉ lệ này lại hoàn toàn trái ngược với một tỉ
lệ khác – khoảng 20% số đảng viên bị gắn bó quá hữu cơ bởi các quyền lợi và
chức vụ, hoặc là những người theo quan điểm “còn đảng còn mình” như một
triết lý dân gian đương đại.
Tôi cũng tự hỏi là với tỉ lệ
mang tính “cách mạng” đang trở thành một xu thế không thể đảo ngược ngay trong
nội bộ đảng như thế, một hệ quả mà hoàn toàn có thể dẫn đến một làn sóng thoái
đảng và bỏ đảng công khai trong những năm tới, Đảng sẽ làm sao có thể “hạ cánh
mềm” nếu họ không tự thay đổi, và hơn nữa phải “thay máu” một cách ghê gớm. Mà
thời gian để tự đổi thay lại không còn nhiều, chỉ có thể được tính theo năm…
Được đăng bởi Thuymy
Rfi vào lúc 10:28
No comments:
Post a Comment