Tống văn Công
Posted by diendanxahoidansu on 18/12/2013
I- VÌ SAO QUỐC HỘI KHÔNG THỂ NHẬN
THỨC ĐƯỢC ”CÁI TẤT YẾU” ?
Sau khi Hiến pháp được Quốc hội
thông qua với số phiếu áp đảo, dư luận cả nước sôi hẳn lên. Các
giáo sư, tiến sĩ Mác – Lê phân tích “Hiến pháp thể chế hóa Cương
lĩnh của Đảng được Quốc hội thông qua là thắng lợi của ý Đảng lòng dân”.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trong nói ”Hiến pháp mới nói lên tiếng nói của 90
triệu đồng bào”. Báo Nhân Dân đăng bình luận “Hiến pháp (sửa đổi) – một
bước tiến lịch sử”.
Nhưng có sự phản ứng ngược lại. Nhà văn Võ thị Hảo kêu lên ngày thông qua Hiến pháp là ngày tang
khốc của dân tộc. Đảng
viên Lê Hiếu Đằng, người từng bị chế độ Sài Gòn kết án tử hình tuyên bố
từ bỏ Đảng. Hôm sau, đảng
viên tiến sĩ Phạm Chí Dũng một cây bút bình luận thời sự chính trị xuất
sắc, gửi tâm thư xin ra Đảng, bởi “Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng chỉ mang
hơi thở và bóng hình của các nhóm lợi ích”. Tiếp theo, đảng viên, bác sĩ Nguyễn Đắc Diên ra
Đảng nhưng hứa hẹn ”Khi nào Đảng thực sự hoàn lương, nắm vững ngọn cờ dân
tộc vứt bỏ ngọn cờ xã hội chủ nghĩa thì tôi lại phấn đấu xin vào”. Đảng viên Nguyễn Minh Đào
gần 80 tuổi đời, gần 60 tuổi Đảng cảnh báo “Đất dưới chân Đảng đang rung
chuyển, tôi mong Đảng hãy kịp thời hành động, đừng để quá muộn!”.
Lời nói đầu Hiến Pháp mới viết
rằng, Hiến pháp này “kế thừa Hiến pháp 1946”. Nếu đúng như vậy thì cũng đã đáp
ứng được phần lớn đòi hỏi của số khá đông đảng viên và nhân dân rồi, vậy
tại sao vấp phải phản ứng dữ dội như vậy? Không đúng! Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp mới khác nhau về ý thức hệ, cho nên không có chuyện kế thừa ! Hiến
pháp 1946 đề cao vai trò của nhân dân, đảm bảo các quyền cơ bản của nhân dân,
quy định nhân dân tham gia quyết định các sự kiện trọng đại của đất nước bằng
quyền phúc quyết sau khi đã được Quốc hội thông qua. Hiến pháp 1946 quy định
nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập, điều mà Tuyên ngôn dân quyền và
nhân quyền của Pháp năm 1879 ở Điều 16 viết:”Ở một xã hội mà quyền con người
không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng thì Hiến
pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Khác với
Hiến pháp 1946, Hiến pháp mới quy định cho một tổ chức chính trị được
quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội mà không cần phải qua bầu cử của
nhân dân, quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với tổ
chức chính trị ấy.
Giống như bào chữa cho
việc bỏ phiếu thông qua Hiến pháp của Quốc Hội , tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, phó Chủ nhiệm văn
phòng Quốc hội cho rằng: “Hai năm qua, những tư tưởng về chủ nghĩa lập
hiến, về chủ quyền nhân dân, về quyền con người, về cơ chế kiểm soát quyền
lực…đã tràn vào nước ta, thắp sáng khối óc và con tim của hàng triệu người
Việt….Tuy nhiên, nhận thức về sự tất yếu như vậy nhiều khi khó đạt một cách dễ
dàng . Một độ trễ nhất định của nhận thức so với thực tiễn đã đầy “đa nguyên”
của đời sống kinh tế là rất khó tránh khỏi.” Lời bào chữa của ông không
giúp được “hạ nhiệt” dư luận mà trái lại đã làm cho
người đọc thêm bức xúc: “ Tại sao những tư tưởng khai
sáng tràn vào thắp sáng được khối óc, con tim của hàng triệu người Việt mà nó
lại không thể thắp sáng nỗi đầu óc, con tim của gần 500 đại biểu Quốc
hội, trong có hơn 90 % là đảng viên, và có mặt tất cả các ủy viên Bộ chính trị
của Đảng tiên phong lãnh đạo, “ những đại biểu ưu tú mang trí tuệ của dân tộc
và thời đại”? Điều ấy gây khó cho những ai muốn bào
chữa họ là những đại biểu ưu tú của nhân dân!
Mọi người đều biết “tất
yếu và ngẫu nhiên” là một cặp phạm trù triết học phản ánh mối liên hệ khách
quan giữa các hiện tượng trong quá trình biến đổi, phát triển của thế giới .
Tất yếu là cái nhất thiết phải xảy ra trong những điều kiện nhất định, còn ngẫu
nhiên là cái có thể xảy ra hay không thể xảy ra, có thể xảy ra thế này hay thế
khác. Tất yếu gắn liền với những nguyên nhân bên trong, bản chất của hiện
tượng, là xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Cái tất yếu mở đường đi
cho nó thông qua vô số những cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên thì trở thành
biểu hiện, bổ sung cho cái tất yếu. Cái tất yếu được chỉ ra trong các quy luật
động học có độ xác định cao. (theo Từ điển Bách khoa).
Nhiều học giả trên thế giới và
trong nước đều khẳng định rằng, tự do, dân chủ, nhân quyền là xu thế tất yếu của thời
đại mà mọi quốc gia nhanh hay chậm đều phải đi đến. Vậy nếu đi
ngược lại cái tất yếu thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn phía trước tiềm ẩn
nhiều tai họa!
Đại văn hào Stephan Zweig cho
rằng “Luôn có những con chim báo bão, sứ giả của trí tuệ, đi trước những tai
họa lớn bằng sự bay của mình”. Tiếc thay tiếng chim báo bão ở nước ta
không có người lắng nghe!
“ĐẾN HẾT THẾ KỶ NÀY CHƯA
BIẾT ĐÃ CÓ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HOÀN THIỆN Ở VIỆT NAM HAY CHƯA”!
Trên đây là câu nói của Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng khi góp ý sửa đổi Hiến pháp. Ông vốn là tiến
sĩ về lý luận xã hội chủ nghĩa Mác – Lê , là người đứng đầu Đảng
cộng sản nhận nhiệm vụ “đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH với
nhận thức và tư duy đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011). Vậy câu nói của ông nên hiểu là với “nhận
thức và tư duy” thế nào?
Theo lý luận Mác- Lê thì ở thời kỳ quá độ , chuyên chính vô sản phải thi hành các chính
sách nhằm tạo ra “điều kiện tiên quyết của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
là xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa hùng mạnh và tiến hành hợp
tác hóa kinh tế nông dân. Thời kỳ quá độ kết thúc sau khi đã tiêu diệt thành
phần tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn, chủ nghĩa xã hội thắng lợi
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.” (Từ điển kinh tế, Nhà XB CTQG Liên
Xô năm 1958, NXB Sự thật in lại 1962, trang 565). Về thời kỳ quá độ, Đại
hội 11 kết luận:”Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là
xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.” Nội dung này
trung thành với nguyên lý nói trên và không gây cảm giác “chuyện ấy còn lâu”.
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới bác bỏ khả năng thực hiện “quá độ xã
hội chủ nghĩa” nói trên. Nhưng
có lẽ sự bác bỏ có sức thuyết phục mạnh nhất là việc các nước SNG
trong Liên Xô cũ và các nước Đông Âu vứt bỏ hoàn toàn lý thuyết nói trên để
thực hiện nền dân chủ pháp quyền, kinh tế thị trường hiện đại và xã hội
dân sự.
Nguyên nhân khiến cho chủ nghĩa xã hội không thể vượt
qua được chiếc cầu “quá độ” là vì nó mang nhiều khuyết tật không thể khắc
phục, trong đó có hai vấn đề lớn nhất:
Một là chế độ độc
tài toàn trị từng bước làm thoái hóa
Đảng cộng sản cách mạng, vốn đặt mục đích vì lợi ích người lao động, cuối
cùng lại trở thành Đảng quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, đứng
trên nhân dân. Tình trạng này không thể khắc phục được, bởi như nhận định
của lý thuyết gia chính trị Lord Acton “ Quyền lực dẫn tới tha hóa. Quyền
lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối.” Các Đảng cộng sản đều kêu gọi
đảng viên gần dân, dựa vào dân, nhưng mọi quyền lợi của họ đều do Đảng quyết
định, cất nhắc, phân công cho nên không có đảng viên nào thấy cần phải
dựa vào dân. Hơn nữa, những điều người dân đòi hỏi mà trái với Nghị quyết
của Đảng thì họ phải nhân danh Đảng bác bỏ, thậm chí trù giập, để bảo vệ
quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
“Đảng cử dân bầu”.
Hai là chế độ xã
hội chủ nghĩa triệt tiêu quyền sở hữu tài sản cá nhân tức là quyền tự do về kinh tế,
khiến cho con người mất động lực lao động sản xuất và sáng tạo. “Cha
chung không ai khóc”, “của chung là của chùa” khiến cho “làm thì nhác, chia
chác thì siêng”. Lê Nin cho rằng quyết định cuộc đấu tranh “ai thắng ai” là ở
năng suất lao động bên nào cao hơn. Nhưng kết cục, năng suất lao động ở các
quốc gia xã hội chủ nghĩa đều thấp, hàng hóa làm ra vừa ít, vừa kém chất
lượng. Đời sống vật chất không được cải thiện, trong khi đời sống tinh thần
không có tự do, nhân dân không thể mãi cúi đầu cam chịu.
Đảng cộng sản Việt Nam may mắn
hơn các Đảng cộng sản khác ở 2 điều: Nhân dân ta nhạy bén, dám phản ứng
khi nhìn thấy khuyết tật lộ ra sau cải tạo xã hội chủ nghĩa;
Đảng có nhiều nhà lãnh đạo biết lắng nghe nhân dân, âm thầm cùng họ
“xé rào”(tức là vượt qua các nguyên lý xã hội chủ nghĩa), như Võ Văn Kiệt, Trần
Phương, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Văn Hơn, Bùi Văn Giao… Nhờ đó,
Đảng có thể lãnh đạo cuộc đổi mới kinh tế của Đại hội 6 năm 1986. Với
cách nói né tránh là “xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp”, thực ra đó là
xóa bỏ cơ chế xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lê mà nội dung đã trích dẫn ở
trên. Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư
bản, nhưng né tránh tên cúng cơm để gọi là doanh nhân. Tuy nhiên về mặt chính
trị thì hầu như 28 năm qua không có sự tự giác đổi mới đáng kể, chỉ
vì sợ mất vị trí độc quyền toàn trị. Ngay trong khóa 6, ông Trần Xuân
Bách, ủy viên Bộ chính trị chỉ vì đề nghị đổi mới chính trị song song với
đổi mới kinh tế đã lập tức bị sa thải!
Đại hội 7, Đại hội 8 vẫn nhắc lại đổi mới kinh tế là
“điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới chính trị”, nhưng lại “bác
bỏ lợi dụng dân chủ, nhân quyền nhằm quấy rối về chính trị”. Đại hội 9
rút ra 4 bài học đổi mới không nhắc gì đến đổi mới chính trị. Điều lạ lùng
là Đại hội này khẳng định “Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta bỏ qua chủ nghĩa tư bản”. Thật là cố bám lấy mớ lý luận giáo điều một
cách hết sức nông nổi, dù rằng thừa nhận “tình trạng tham nhũng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là
rất nghiêm trọng.”, bởi vì không nhân thức được nguyên nhân suy thoái là do
không đổi mới chính trị. Đại hội 10, quyết định,“Phát triển kinh
tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, và phát triển văn hóa tinh thần”;
đồng thời cảnh báo tình trạng suy thoái đa dạng và nghiêm trọng hơn khóa trước
:“Suy thoái chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra
nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng thiếu sức chiến đấu.” Trước thềm Đại
hội 11, nhiều đảng viên, trong đó có nguyên ủy viên Bộ chính trị và Ủy viên
Trung ương, kiến nghị phải đổi mới chính trị. Ý kiến các đồng chí
này không được nghe, họ còn bị quy chụp là suy thoái chính trị, “tự
diễn biến”! Đại hội 11 nhắc lại ”Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi
mới kinh tế theo lộ trình thích hợp…”. Nhưng không nêu ra được những nội dung
tự do, dân chủ của thời đại vào lộ trình đổi mới chính trị. Các văn kiện
vẫn tiếp tục khái niệm “mở rộng dân chủ” mà mấy mươi năm trước, Trần Xuân
Bách đã bác bỏ:” Dân chủ không phải
do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn ban ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở
rộng thấy bất tiện thì thu hẹp. Dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi
dụng”. Thực hiện nghị quyết Đại hội 11, Hội nghị TƯ 4 ra Nghị quyết
xây dựng Đảng, tìm biện pháp khắc phục tình trạng mà một nhà lãnh
đạo Đảng đã chẩn đoán”Tình trạng suy thoái trong Đảng đã nặng lắm rồi,
như căn bệnh ung thư đã di căn”. Đáng buồn là biện pháp chủ yếu để trị
“ung thư đã di căn” được HN TƯ 4 đề ra chỉ là “tự phê bình và phê
bình chân thành xây dựng.” Nhà
văn Vũ Tú Nam xót xa bình luận”Đảng như
con cá ngúc ngoắc trong ao cạn!”
Đến đây, đã có thể hiểu
được vì sao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt mục tiêu xã hội chủ nghĩa xa vời
đến thế. Ông đã thấy “Tham nhũng tổ chức thành đường dây chứ không phải
từng người ăn mảnh….họ đua nhau tham nhũng”. Đảng viên có chức, có quyền,
“một bộ phận không nhỏ” là những “tư bản đỏ” nắm quyền vận hành nền kinh
tế theo thứ “chủ nghĩa tư bản hoang dã”. Ông không thấy không thể
nào “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối với họ. Vậy thì, làm sao
biết hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay chưa! Ông thấy
bất lực trước thực tế, nhưng tiếc thay tại sao vẫn cố buộc cả dân tộc
phải đi “đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!”?
Thưa Tổng bí thư, xin
được nhắc lại lời của Alexander Ivanovich Herzen, một nhà tư tưởng Nga lỗi
lạc:” Mục đích mà xa bất tận thì không phải là mục đích nữa,-
nếu anh muốn, chỉ là mánh khóe thôi; mục đích thì phải gần hơn, ít nhất
cũng như tiền lương hay khoái cảm trong lao động….Cuộc sống không thỏa mãn với
những ý tưởng trừu tượng, không chịu vội vã, cứ chậm chạp….Cho phép tôi được
hỏi anh, do đâu mà anh cảm thấy thế giới bao quanh chúng ta lại vững chắc và
trường tồn đến thế?”.
II – TỪ BẢN KIẾN NGHỊ 1 NGƯỜI KÝ,
ĐẾN “KIẾN NGHỊ 72”.
Đầu năm 1991,
trước thềm Đại hội 7, tình hình kinh tế đã có chuyển biến khá, nhưng đất nước
chưa thoát khỏi khủng hoảng. Một số lão thành cách mạng họp nhau nhận diện cuộc
khủng hoảng và bàn bạc tìm lối ra. Các cụ nhất trí giao cho ông Nguyễn
Kiến Giang, nguyên Phó giám đốc Nhà xuất bản Sự thật chấp bút. Đến tháng
3-1991 bản kiến nghị viết xong với tựa đề là “Khủng hoảng và lối ra”. Các cụ họp lại đọc,
tất cả đều tán thành, nhưng chỉ có cụ Lê Giản, nguyên giám đốc Nha Công an đầu
tiên đồng ý ký tên, số còn lại mỗi người nêu một lý do để từ chối ký tên ! Bởi
tháng 3 năm 1990 ông Trần Xuân Bách đã bị kỷ luật vì những luận điểm ná ná bản
kiến nghị này. Thế mới biết ở thời ấy nỗi sợ hãi thật là ghê gớm. Trước
tình hình đó, Nguyễn Kiến Giang đành xin phép các cụ một mình ông ký tên
và gửi cho Bộ chính trị!
Bản kiến nghị Khủng hoảng và lối ra dài hơn 17 trang giấy
A4, hơn 10.000 từ. Xin lược ghi những điểm quan trọng.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
“Tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng và kéo dài là hiện thực cơ bản bao trùm toàn bộ đời sống xã hội nước ta
không ai không thừa nhận….. Văn kiện Đảng gọi là khủng hoảng kinh tế – xã hội,
nhưng thực chất của nó là thế nào? Nguyên nhân chủ yếu của nó? Có khả năng ra
khỏi khủng hoảng hay không? Thoát ra bằng lối nào?
KHỦNG HOẢNG:
Đây là khủng hoảng toàn diện,
khủng hoảng tổng thể của xã hội : kinh tế và xã hội, tinh thần và đạo đức, tư
tưởng và chính trị. Khủng hoảng ở mỗi lĩnh vực vừa là nguyên nhân vừa là hậu
quả của khủng hoảng ở các lĩnh vực khác”
Các quan hệ sở hữu không
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, do đó vẫn tiếp tục kìm hãm và phá hoại
những năng lực sản xuất xã hội. Rõ nhất là ở khu vực sở hữu nhà nước,
đang biến thành ổ chứa những bệnh tật hiểm nghèo: Tham nhũng, buôn lậu và
lãng phí vô tội vạ…. Những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy nhà nước
móc ngoặc với những phần tử lưu manh kết thành những mafia có thế lực khá
lớn.
Sự phân hóa xã hội không
lành mạnh đang diễn ra…. Nghèo khổ lạc hậu cộng với bất công xã hội làm cho
tình hình xã hội rất ngột ngạt.
Trong hoàn cảnh đó, khủng hoảng
về tinh thần là không thể tránh khỏi. Chưa bao giờ con người sống chông chênh
và lo lắng như bây giờ. Chưa bao giờ đạo đức xã hội bị xói mòn và băng hoại như
bây giờ. Tội ác xảy ra ngày càng tăng, mang những hình thức nghiêm trọng hiếm
thấy… Các giá trị tinh thần bị lật ngược: Người ngay sợ kẻ gian, người lương
thiện có năng lực sống khổ cực hơn kẻ cơ hội; xu nịnh trở thành “mốt” phổ
biến.
Khủng hoảng có khía cạnh quốc
tế của nó. Xu thế dân chủ hóa phát triển rộng rãi và mạnh mẽ. Trong khi đó nước
ta vẫn sống trong thế cô lập với thế giới bên ngoài. Tính chất lạc hậu, lạc
điệu của nước ta càng nổi bật lên,tạo thành một sức ép tinh thần lớn đối với
nhân dân, nhất là lớp trẻ và giới trí thức..
Khủng hoảng ở nước ta hiện nay
tập trung nhất ở khủng hoảng chính trị. Đảng duy trì địa vị độc tôn quá lâu,
biến sự lãnh đạo của mình là một tất yếu khách quan trong đấu tranh giải phóng
dân tộc thành chế độ đảng trị hiện nay là một áp đặt chủ quan… Đảng đã tự đánh
mất uy tín vốn có. Trong điều kiện đó không thể nói tới một nhà nước pháp
quyền. Xã hội gần như sống không có luật pháp. Chỉ cần nhắc tới một sự thật là
đã phát hiện 10.000 vụ tham nhũng, nhưng chỉ đưa ra xét xử vài chục vụ mà cũng
không xét xử đến nơi đến chốn.
LỐI RA:
Về mặt quốc tế: Quốc tế hóa kinh tế, tiến bộ khoa học – công
nghệ, dân chủ hóa đời sống xã hội của nhân loại đang tạo cho chúng ta những
điều kiện hòa chung vào trào lưu văn minh hiện đại.
Trong nước, những lực lượng ủng
hộ đổi mới có khắp nơi, chỉ cần có sự lãnh đạo sáng suốt. Có 2 điểm cần làm rõ:
1- Bài học từ Đông Âu không
phải là kìm giữ, bị động đối phó với dân chủ hóa và đổi mới chính trị mà phải
là chủ động thực hiên dân chủ hóa và đổi mới chính trị từng bước vững chắc,
triệt để.
2- Dân chủ hóa không đe dọa
sẽ tước mất vai trò lãnh đạo của Đảng. Chỉ có đảng nào không gắn bó với
nhân dân, biến sự lãnh đạo của mình thành chế độ đảng trị và cố bám giữ lấy nó
thì mới bị sụp đổ.
Chuẩn bị mảnh đất tốt cho sự
phát triển lâu dài của đất nước trên nền tảng văn minh chung của loài người đã
được khảo nghiệm là : Xã
hội dân sự ( Nguyễn Kiến Giang dùng thuật ngữ “xã hội công dân”); kinh tế thị trường; nhà nước
pháp quyền.
Phải tách Đảng ra khỏi các chức
năng nhà nước, tách nhà nước ra khỏi chức năng quản lý, điều hành kinh tế,
mới có thể vận hành có hiệu quả guồng máy kinh tế- xã hội.
Thay đổi quan hệ sở hữu: Chuyển sở hữu nhà nước thành sở hữu cổ phần và
sở hữu tư nhân những phần còn lại. Đối với nông dân thực hiện quyền có (droit
de possession) về ruộng đất lâu dài, kể cả quyền thừa kế và chuyển nhượng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
theo hướng xây dựng xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền sát chuẩn mực quốc tế.
Phát huy năng lực trí tuệ của
giới trí thức. Tôn trọng tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do báo chí. Xóa bỏ độc quyền chân lý là một
yêu cầu bức bách về chính trị.
Chuyển quyền lực chính trị từ
các cơ quan Đảng sang các cơ quan đại diện quyền lực nhân dân. Tuyên bố xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp quy định vai trò của Đảng là lực lượng duy nhất
lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội chỉ
được thực hiện bằng phương pháp thuyết phục.
Mặt trận Tổ Quốc đứng ra triệu
tập một Đại Hội quốc dân mới theo kinh nghiệm Đại hội quốc dân ở Tân Trào trước
khởi nghĩa Tháng 8 1945 để bàn và quyết định Một chương trình khắc phục khủng
hoảng.
Theo tinh thần hòa hợp, hòa
giải, đoàn kết dân tộc, Đảng chỉ cần bảo đảm cho mình một nửa số đại biểu, hoặc
một đa số tương đối trong Quốc hội.
Bản kiến nghị với những điều đặt ra hết sức thiện
chí đã bị xếp xó. Do đó mà sau 22 năm, tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất
nước đã tăng lên theo cấp số nhân! Thực tế đất nước và nguyện vọng
bức xúc của nhân dân đã hun đúc đưa tới sự ra đời của Bản kiến nghị 72. “Kiến nghị 72” là liều
thuốc mạnh chữa một bệnh trạng của Đảng độc quyền lãnh đạo “ung thư đã di căn”,
gồm các điểm quan yếu:
- Theo nguyên tắc chủ
quyền nhân dân, không định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc một
tổ chức chính trị.
- Quy định quyền con
người theo đúng tinh thần Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 và các Công
ước quốc tế.
- Đất đai thuộc nhiều
quyền sở hữu: tư nhân, tập thể, cộng đồng, nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền với
tam quyền phân lập.
- Quyền phúc quyết Hiến
pháp của nhân dân.
- Quân đội
chỉ trung thành với Tổ quốc.
Trí tuệ và tầm vóc lớn lao của
kiến nghị lần này không phải ở con số gấp 72 lần, cũng không phải
15.000 lần tương ứng với số người đã hưởng ứng ký tên. Điều quan trọng là
nó mang sức mạnh tỉnh thức của nhân dân, nhận ra cái tất yếu nhất
thiết phải xảy ra! Một số nhà lý luận “phò chính thống”(theo cách nói của
Nguyễn Kiến Giang) cố cãi chày cãi cối rằng, 72 hoặc 15000 vẫn là thiểu
số. Các ông không nhớ rằng, Kim Ngọc, người khai sinh khoán 10 là rất
thiểu số! Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945 với 5000 đảng viên là
rất thiểu số! Vấn đề không phải là ít hay nhiều mà là tiềm năng có thể
nhân lên nhanh chóng để chiến thắng, hoặc ngược lại thì, dù là một thực thể
khổng lồ nhưng rất dễ bị thoái hóa, lụi tàn. Điều quyết định là ở chỗ
thuận theo lòng dân và hợp với xu thế tất yếu của thời đại.
Tiếc thay, bản Hiến pháp thể
chế hóa Cương lĩnh vừa được thông qua, chẳng những không đếm xỉa góp ý của nhân
dân mà còn bác bỏ nhiều điều đã được chính Chính phủ gồm có ủy viên Bộ
chính trị, ủy viên BCH TƯ đã thảo luận và biểu quyết !
III XIN CHỚ VỘI REO MỪNG, CŨNG ĐỪNG
BUỒN TANG KHỐC!
Vô cùng trân trọng sự âu
lo của nhà văn Võ thị Hảo khi nghe bà đau đớn kêu lên, ngày thông qua Hiến pháp
là ngày tang khốc của dân tộc! Xin đừng quá đau buồn, hãy nhìn kìa, sự tất yếu
vẫn cứ đang lừng lững đi tới!
Biên soạn bản Hiến pháp này,
người ta đã rất dày công, khéo léo chọn từng câu, tìm từng chữ để hóa
trang cho nó có bộ mặt dân chủ, nhân quyền. Trước kia, Stalin, Mao Trạch Đông
không cần điều đó. Nói chi xa, Hiến pháp 1980 không cần điều đó. Nghĩa là thời
đại đã dần dần buộc dù muốn toàn trị cũng không được ngang nhiên, mà
phải khéo diễn đạt bằng ngôn từ tự do dân chủ! Và khi đã đóng
vai ông Thiện thì không thể vung dùi cui bạt mạng được !
1 – “Viết hoa chữ Nhân dân”
Ngày 9-12 2013 họp báo công bố
Hiến pháp, ông Phan Trung Lý chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho biết
“Lần đầu tiên trong Hiến pháp, chúng ta viết hoa chữ “Nhân dân nâng lên một
bước vai trò của Nhân dân, Hiến pháp trước hết khẳng định chủ quyền của Nhân
dân”.
Viết hoa chữ nhân dân là học
cách nói của nhà văn Maksim Gorky khi ông nói “Con người viết hoa” để tỏ
ý trân trọng con người lao động và tự do, chứ không phải ông viết hoa chữ con
người trong các tác phẩm của mình! Tuy vậy, không vì cách nói của ông mà
làm cho nhà nước xô viết Stalin tôn trọng con người, để nhờ đó mà tránh
khỏi diệt vong. Các nhà ngôn ngữ sẽ cho ý kiến cách viết đó có đúng ngữ pháp
hay không, nhưng vấn đề cần nói là liệu viết hoa tất cả chữ nhân dân trong Hiến
pháp có tạo ra được điều kiện để khẳng định chủ quyền nhân dân
trong thực tế? Xin nêu 2 điểm sau đây để cùng suy nghĩ:
- Khiếu kiện là một hình thức
tỏ bày ý kiến rất cao so với những kiến nghị ở các cuộc họp, hoặc
góp ý của cử tri. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói”Không ai thích thú gì đi
khiếu kiện”. Vậy thì tại sao người dân bắt đầu khiếu kiện suốt hơn 10 năm qua
mà cho đến nay nguyên nhân chính của nó là lời hứa “người cày có ruộng”
từ những năm 30 và trước cuộc cải cách ruộng đất ở thế kỷ trước, vẫn chưa
được ghi nhận trong Hiến pháp này? Chắc chắn rồi đây, người nông dân sẽ không
thể câm lặng!
– Chủ quyền nhân
dân nằm trong cái khung của Cương lĩnh! Đại biểu Dương Trung Quốc khi trả
lời chuyện ông không bỏ phiếu tán thành Hiến pháp :“Khi đặt lên bàn
thì phải nói là các nhà lãnh đạo Quốc hội cũng rất muốn mở rộng dân chủ để mọi
người tham gia. Có lẽ cuộc thảo luận đó nó đã khá rộng rãi và nó đi quá giới
hạn mà theo tôi quan niệm, là vượt quá xa Cương lĩnh của Đảng cộng sản cho nên
về sau họ điều chỉnh lại”. Như vậy “chủ quyền nhân dân” không thể
vượt qua cái khung mà Đảng đặt ra trước đó!
2 – Ở các nước dân chủ, Hiến pháp là quyền lực tối thượng
.
Các Đảng cầm quyền ở các xã hội
dân chủ phải xây dựng cương lĩnh của Đảng sao cho nhân dân thấy rằng Cương lĩnh
đó có chất lượng thực thi Hiến pháp hiệu quả nhất. Khi quyền con
người được Hiến pháp ghi nhận thì nhân dân cứ theo đó mà thực hiện,
không phải “theo quy định của pháp luật”để cắt xén vô lối. Ngay dưới chế độ
thực dân Pháp, ngày 22-7-1938, Đảng cộng sản Việt Nam đã ra báo Dân chúng không
xin phép tại số nhà 43- đường Hamelin (nay là Lê thị Hồng Gấm, quận 1, TP HCM).
Chính quyền thực dân Pháp đã chấp nhận. Chẳng lẽ sau nửa thế kỷ đổ bao xương
máu để giành độc lập, tự do, người Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận
theo Hiến pháp lại bị trấn áp bởi Đảng cộng sản mà mình đã cưu mang? Chẳng lẽ
người Việt Nam có một nhà nước “dân chủ gấp vạn lần hơn” như lời bà Phó chủ
tịch nước, lại không thể tự do lập ra một cái Hội nhà văn cỡ như Tự lực
Văn đoàn dưới nanh vuốt của thực dân Pháp? Nhà nước Việt Nam vừa
đắc cử vào Hội đồng Nhân quyền thế giới với số phiếu cao tuyệt đối. Vậy
thì thế giới nhìn vào Việt Nam, họ sẽ nghĩ sao? Và nhân dân Việt Nam nhìn
ra thế giới sẽ nghĩ sao về thân phận của mình? Xin đừng quá bi quan! Một
sự kiện có tính lịch sử : ngày 23 tháng 9-2013, Diễn đàn xã hội dân sự
đã ra đời với một Ban cố vấn gồm có 8 vị có uy tín đã công khai danh tính
. Diễn đàn xã hội dân sự thành lập trang mạng với bài vở
nhiều chiều, phong phú, do Tiến sĩ Nguyễn Quang A và nhóm trị sự điều hành, qua
2 tháng có hàng triệu khách ghé thăm. Sự kiện này có hai ý nghĩa: Đảng
cầm quyền và Nhà nước Việt Nam muốn chứng minh quyền con người được ghi trong
Hiến pháp là có thực; mặt khác, người Việt Nam cũng đã bắt đầu hiểu rằng quyền
con người là do “tạo hóa ban tặng”, không phải cúi xin và chờ được cho.
Rồi từ đó, quyền dân chủ của công dân cũng sẽ được hiểu như thế, phải đòi
hỏi một chế độ bầu cử tự do để có một Quốc hội thực sự của dân, do dân,
vì dân.
3- “ Đảng phải như thế nào mới là Đảng lãnh đạo
chứ!”
Để chứng minh Đảng cộng sản
Việt Nam xứng đáng là Đảng lãnh đạo, TBT Nguyễn Phú Trọng nói: “Một Đảng gần
dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình. Đảng như thế mới là Đảng lãnh đạo chứ!”.
Như vậy là từ nay nhân dân sẽ
đòi: Không thể để cho một ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh bất chấp việc
Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, ngang nhiên khẳng định Trường Sa, Biển
Đông là của họ, vẫn cứ sang Tàu cam kết đưa họ lên vùng đất Tây nguyên có
ý nghĩa chiến lược về an ninh, để khai thác bô xít, tàn phá môi trường, đe dọa
nguồn nước sông Đồng Nai, bán alumina cho họ dưới giá thành, mà không bị
gọi ra tòa! Từ nay, Đảng sẽ phải chịu trách nhiệm về việc “kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo” ghi trong Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh”, nếu nó
tiếp tục gây thất thoát cỡ Vinashin. Đảng sẽ phải chịu trách nhiệm về
việc từ chối nội dung nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, nếu nạn
tham nhũng tiếp tục hoành hành không thể ngăn chặn. Nhân dân phải có
tiếng nói của mình khi câu “tình trạng tham nhũng diễn biến phức tạp, chưa ngăn
chặn được” cứ lặp đi lặp lại từ nghị quyết Đại hội này sang Đại hội khác. Mới
đây, ngày 13-12- 2013, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Việt Nam tham nhũng
đứng thứ 4 Châu Á, chỉ khá hơn 3 nước đại tham nhũng là Bắc Triều
Tiên, Apganistan, Somalia. Đảng sẽ phải chịu trách nhiệm, nếu như năm
2014, Tổ chức Minh bạch thế giới lại tiếp tục có đánh giá tương tự ?
Cái tất yếu sẽ đến một cách hòa
bình như vậy. Trong xu thế hội nhập quốc tế không có điều gì bưng bít được,
cũng không có điều gì bị kiêng kỵ cho rằng chỉ phù hợp với Phương
Tây. Bởi ông cha ta ngày xưa đã dám cắt bỏ cái búi tóc mà theo văn
hóa truyền thống “ cái tóc là gốc con người”, tức là các cụ
đã theo phương Tây đấy!
Lịch sử cho thấy
thấy xu thế tất yếu nhất thiết phải xảy ra, không có thế lực
nào ngăn chặn được. Nhưng tùy hoàn cảnh, điều kiện, nó sẽ đến nhanh hay chậm và với
hình thức nào. Con người có thể tác động để tạo ra điều kiện
tương ứng. Nếu các thế lực độc tài, bảo thủ điên cuồng ngăn chặn bằng vũ lực
thì cái tất yếu sẽ đến cùng với gươm và súng. Đó là bài học Lybia, Syria.
Tuy không cưỡng chế
nhân dân bằng vũ lực, nhưng lại cố chần chừ, không chịu mau chóng
cải cách chính trị thì, nó sẽ đến với cách mạng hoa cam, hoa nhài, như ở
Ucraina. Dù không đổ máu, nhưng nó cũng gây xáo trộn, ngưng trệ sự phát triển
đất nước . Sẽ rất may mắn nếu như đất nước có những nhà cầm quyền sáng
suốt cùng nhân dân cải cách chính trị, thực hiện tự do, dân chủ thì “cái
tất yếu” sẽ đến với nụ cười và niềm vui hòa hợp, hòa giải. Đó là
cuộc Đổi mới kinh tế,( có thể gọi là “cải cách một nửa”! )
của Đại hội 6 ở Việt Nam và cải cách triệt để như Myanmar mới
đây.
Cải cách triệt để, toàn
diện để đất nước không phải qua cách mạng hoa cam, hoa nhài đang là tâm
nguyện của người Việt Nam yêu nước. Có thể tin rằng, cuối cùng các
nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay sẽ vận dụng tốt nhất bài
học từ Đại hội 6 của Đảng cộng sản Việt Nam để đón “cái tất yếu” đang hòa
bình đi tới với nụ cười hòa hợp, hòa giải, đại đoàn kết dân tộc!
Ngày 17-12- 2013
T.V.C.
—
* Ông Tống Văn Công nguyên là
Tổng biên tập báo Lao động.
No comments:
Post a Comment