Phan Châu Thành
Tác
giả gửi tới Dân Luận
Thứ Ba, 17/12/2013
Phần 2: Những nguyên nhân phá sản từ Mô
hình kinh tế Nhà nước
Trong Phần 1 – Những vấn đề
pháp lý trong các “đại án tham nhũng”, chúng tôi đã chỉ ra những nguyên nhân
trong hệ thống pháp lý đã tham gia tạo nên (như là những cái bẫy pháp lý) sự đổ
vỡ của các tập đoàn kinh tế nhà nước (KTNN) như Vinashin, Vinalines…
Nhưng những cái bẫy pháp lý
(thường là ngu xuẩn và vô bổ như NĐ 49/CP) giăng trên đầu và xung quanh các tập
đoàn KTNN đó, khiến chúng tự mắc vào và tự sập bẫy cũng chỉ là bối cảnh mà hệ
thống pháp lý kinh tế của thể chế này vô tình tự dựng nên cho các con cưng của
mình – các doanh nghiệp KTNN, mà thôi. Chính cái cơ cấu tổ chức và phương cách
quản lý kinh tế của nhà nước này, hay còn gọi là mô hình tổ chức kinh tế nhà
nước, với 127 các tổng công ty và tập đoàn KTNN ở trung tâm và “là chủ đạo” để
đảm bảo “định hướng XHCN”, mới khiến các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công
ty và tập đoàn KTNN đó trở thành những cỗ máy tự động vận hành đến… sự sụp đổ
tất yếu của chúng, như Vinashin và Vinalines hay như nhiều công ty NN khác đã
tự “vận hành” tự sát, mà chúng ta đã đang và sẽ còn thấy nhiều.
Vậy điều gì trong cơ cấu tổ
chức và hệ thống quản lý của các tổng công ty và tập đoàn KTNN khiến chúng sẽ
tất yếu đi đến phá sản? Đó là điều tôi xin sẽ trình bày trong phần 2 này.
Thứ nhất, về tổ chức, sau gần
trăm năm thí nghiệm trên hàng chục quốc gia với hàng tỷ dân số, “phe” XHCN vẫn
chưa tìm ra mô hình tổ chức đơn vị kinh tế XHCN cho mình thì tất cả (những quái
thai thí nghiệm mang tên công xã, HTX, liên hiệp xã, xí nghiệp, nông trường,
liên hiệp các xí nghiệp…) đã sụp đổ khắp nơi trước hay cùng bức tường Berlin
năm 1991. Còn lại ở Trung Quốc và Việt Nam người ta đều vội vã học theo mô hình
công ty hay tổng công ty của bọn tư bản “thối tha”, để tồn tại.
Nhưng VN đã áp dụng ba “cải
tiến” chính, cơ bản để chúng vẫn đảm bảo “tính XHCN”: đầu tiên là, sở hữu “toàn
dân” - do đảng sở hữu và đảng cử người “đại diện sở hữu” các công ty đó (Chủ
tịch HĐTV), tức là công ty chỉ có 1 (một) cổ đông duy nhất, thay vì công ty
phải do nhiều cổ đông sở hữu và các cổ đông đó bầu ra chủ tịch HĐTV; hai là,
công ty nhà nước thực chất không có pháp nhân độc lập vì công ty không được độc
lập mà phải phụ thuộc đảng/nhà nước, và vì đảng hay nhà nước chỉ có và chỉ là
một pháp nhân duy nhất; và ba là: đảng bổ nhiệm trực tiếp luôn Giám đốc/Tổng
giám đốc điều hành công ty/tổng công ty thay vì chủ tịch HĐTV chọn thuê người
điều hành.
Với ba điều chỉnh chính trên,
mô hình công ty, tổng công ty hay tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam không còn
là công ty (The Corporate body) như là một trong những thành tựu sáng tạo vĩ
đại nhất của Loài người (à quên: của bọn tư bản thối tha) sau mấy thế kỷ trải
nghiệm từ thế kỷ 18, thời Adam Smith đến nay, nữa, mà chỉ còn là những quái
thai XHCN mới của Việt Nam.
Hiện đảng và nhà nước VN có ba
mô hình chính là công ty TNHH một thành viên (!), tổng công ty và tập đoàn kinh
tế nhà nước, trong đó mô hình tập đoàn vẫn đang là “thí nghiệm”. Chính những mô
hình tổ chức công ty XHCN quái thai này đã, đang và sẽ biến những con người vận
hành chúng thành những quái nhân như Phạm Thanh Bình và Dương Chí Dũng, đưa các
tổ chức kinh tế quái thai đó đến những cái chết tất yếu như Vinashin,
Vinalines...
Ở Vinashin, chúng ta thấy ông
Bình được đảng “thí nghiệm” bổ nhiệm cả hai chức danh chủ tịch HĐTV và Tổng
giám đốc Tập đoàn (mãi đến khi tập đoàn đã sập ông Bình mới nhường chức tổng
giám đốc cho ông…), nên ông đưa cả tập đoàn đến cái chết ngoạn mục hơn
Vinalines.
Ở Vinalines, đảng rút kinh
nghiệm bổ nhiệm 2 ông Dũng và Phúc độc lập nhau, đúng “thiết kế”, nhưng thiết
kế lại sai ở chỗ làm tổng giám đốc và chủ tịch HĐTV luôn luôn đối chọi nhau
kịch liệt. Đó là chuyện đã xảy ra ở Vinalines và đang xảy ra ở mọi doanh nghiệp
nhà nước, làm chúng không thể hoạt động hiệu quả. Bởi vì, chủ tịch HĐTV có
“quyền” có thế nhưng không có “lực”, còn tổng giám đốc thì có “lực” mạnh hơn
nhưng lại vẫn phải theo chỉ đạo của chủ tịch. Đó là một trong những lực cản cơ
bản khiến các doanh nghiệp nhà nước không bao giờ hoạt động thành công lâu dài
và phát triển bền vững được. Bao giờ cũng có kẻ này lấn lướt kẻ kia trong hoạt
động (không đúng thiết kế) hoặc hai bên căng nhau thì hoạt động kinh doanh càng
bị ảnh hưởng xấu…
Nhưng nếu chủ tịch và tổng giám
đốc bắt tau nhau “đoàn kết” thì sao? Thì… mỗi khu rừng sẽ có hai chúa sơn lâm,
vui vẻ “chia nhau sơn hà”, dân sẽ khổ hơn gấp đôi và nhà nước mất vốn nhanh gấp
đôi…
Thứ hai, về chính sách, các
doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ và ưu tiên mọi nguyền lực (tài chính, đất
đai, các quyền ưu tiên…) và được độc quyền “chức năng” trên thị trường. Các tập
đoàn và tổng công ty đầu nghành còn có chức năng quản lý chuyên môn ngành nữa –
họ là những người chấp bút viết ra các kế hoạch, chiến lược và chính sách cho
cả ngành thay chính phủ mà chính phủ chỉ việc thông qua rồi đưa vào thực hiện.
Nghị định 49/2006/NĐ-CP là một ví dụ về khả năng thao túng chính sách của các
tổng công ty và tập đoàn nhà nước “đầu ngành”…
Nói chung các chính sách quản
lý kinh tế các ngành của nhà nước VN hiện nay đều do các doanh nghiệp nhà nước
viết ra. Vấn đề không chỉ là các chính sách đó chỉ có lợi cho họ, mà trước hết
là các chính sách đó chỉ có tầm nhìn của họ chứ không có tầm nhìn của cả quốc
gia, vì lợi ích lâu dài của cả nền kinh tế.
Thứ ba là về phương cách điều
hành kinh doanh, khi được cho tự do toàn quyền mở rộng kinh doanh bằng “vốn tự
có”, hầu như tất cả các tổng công ty và tập đoàn đều nhảy ra kinh doanh ngoài
ngành của mình. Vinashin thì lập các đội tàu và kinh doanh vận tải biển, còn
Vinalines thì mở nhà máy mới (nhập ụ nổi) để kinh doanh… đóng và sửa chữa tàu
thuyền, và cả hai đều sa lầy và chìm xuồng ở lĩnh vực mở rộng vốn không phải
“sân nhà” của họ đó.
Tại sao vậy? Vì cả hai (hay mọi
tập đoàn nhà nước) đều luôn nói dối và nói quá lên với chính phủ về tương lai
sáng lạn của ngành mình để xin chính phủ cho đầu tư lớn, và khi đã được chính
phủ cho vốn đầu tư lớn rồi thì cả hai (hay tất cả) vốn đều biết ngành mình rất
khó nhai (mà đã giấu diếm không nói thật) nên để “bảo vệ’ vốn được giao thì tốt
hơn là đầu tư vào ngành “ngon ăn hơn” của bên kia... mà mình “biết là ngon”.
Thế là có ngay một vài thuyền trưởng láu cá và thất sủng của Vinalines được
Vinashin “trọng dụng” lập nên các “Vinashin-lines”, còn một vài giám đốc cơ hội
và thất thế của Vinashin được Vinalines “tin cậy” mời về để dựng lên các xưởng
“Vinaline-shin” cho các ông Bình, Dũng… tạo nên những bãi lầy tài chính, kinh
doanh (và đạo đức), làm các ông sẽ phải chết chìm và chết chùm trong đó.
Vậy nếu chính phủ không cho các
doanh nghiệp nhà nước đầu tư ra ngoài ngành nữa (như hiện nay) thì vấn đề đầu
tư kém hiệu quả sẽ được giải quyết? Không. Khi không được kinh doanh ra ngoài,
lấn sân – tức là không được “phình to ngang”, mà vẫn đang có vốn lớn để phải
đầu tư đúng ngành, các doanh nghiệp nhà nước sẽ… ”phình to dọc”. Phình dọc là
khi các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án lớn đúng ngành nhưng họ biết chắc (và
ai cũng biết) kiểu gì cũng chết, đằng nào cũng sẽ lỗ - nhưng họ vẫn đầu tư!
Tại sao họ biết lỗ mà vẫn làm?
Bởi vì ba lý do chính sau: Cứ đầu tư là họ cơ hội rút ruột công trình chia
nhau, lời lỗ tính sau (lý do quan trọng nhất); Họ đã xin vốn (khống và vống
lên), Nhà nước đã cho vốn là họ phải đầu tư, nếu không kỳ sau họ sẽ không xin
được vốn nữa! Và, đầu tư là họ có công trình, có thành tích, tạo công việc cho
nhân viên, các sếp dễ thăng tiến cao hơn, còn kết quả đầu tư…tính sau!
Ví dụ cho kiểu “phình dọc” bất
chấp hiệu quả này là các công trình thủy điện của EVN, các nhà máy chế tạo
nhiên liệu sinh học ở Bình Phước, Phú thọ… của PV Oil (PetroVietnam), lọc dầu
Bỉm Sơn, Thanh hóa (PVN)… và vô số các “công trình” khác của các tổng công ty
tập đoàn kinh tế nhà nước.
“Phình dọc” cũng sẽ dẫn các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước đến những cái chết kinh tế lớn, nhưng chúng khó bị
phát hiện từ ngoài hơn, vì thế càng nguy hiểm hơn khi chúng tích tụ và bùng
phát.
Thứ tư là về quản lý vốn và
hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước. Chính phủ giao vốn và tài sản lớn của Nhà
nước cho các doanh nghiệp nhà nước mà không có một chế tài nào cụ thể về trách
nhiệm của đối với những người “đại diện nhà nước” về quản lý vốn và hiệu quả
kinh doanh vốn nhà nước đó, ngoài hy vọng vào đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ
giúp họ sẽ bảo toàn vốn. Thật quá vô cùng dễ dãi! Đại đa số người được giao tài
sản lớn “của nhà nước” như thế đều dần dần tự coi mình như chủ, cảm thấy mình
là chính chủ sở hữu. Và thế là đảng đã “đẩy” họ ra sức… sở hữu tài sản được
giao “đại diện”! Chỉ đến khi doanh nghiệp sụp đổ, vốn và tài sản nhà nước đã
tiêu tan hết, đã bị “đại diện sở hữu” sở hữu hết, như Vinashin hay Vinalines,
thì nhà nước mới can thiệp thì đã quá muộn. Nhưng nếu nhà nước ngồi vào kiểm
tra công việc hàng ngày thì không thể làm được, và doanh nghiệp thì mất tự chủ,
tự do, sáng tạo…
Gần đây, một số doanh nghiệp
nhà nước đưa ra sáng kiến quản lý: nếu doanh nghiệp lỗ 2 năm thì giám đốc sẽ bị
cách chức. Thế có giải quyết được vấn đề quản lý hiệu quả doanh nghiệp không?
Không. Vì mọi doanh nghiệp trong mọi nghành đều có chu kỳ thăng trầm: vài năm
phát triển và năm khó khăn, các giám đốc đều biết điều đó và nếu gặp năm khó
khăn thì họ sẽ báo cáo láo rằng vẫn lãi chút chút để được “qua đò”, và khi gặp
những năm phát triển tốt thì họ cũng vẫn báo cáo “chỉ lãi chút chút” để dự
phòng hay bù lại cho những năm khó khăn…
Không cần dọa cách chức thì
hiện nay đại đa số giám đốc các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang làm thế rồi. Và
cái phần lãi thực nhưng “để dự phòng cho khi khó khăn” nên không được báo cáo
đó thì ai quản và quản thế nào? Điều đó là nguyên nhân phổ biến bắt đầu cho mọi
tham nhũng, mà tham nhũng là khởi điểm và kết thúc của phá sản doanh nghiệp.
Đó là nững con đường tất yếu mà
các doanh nghiệp nhà nước, cách này hay cách khác, đều sẽ phải đí qua, vì chúng
được sinh ra với “bản năng” như vậy - để đến kết cục không thể tránh: phá sản,
như Vinashin hay Vinalines hay v.v… và v.v…
Vậy vấn đề nằm ở đâu và làm sao
tranh điều đó?
Vấn đề nằm ở cấu trúc tổ và
chức quản lý quái thai của các công ty nhà nước, với các “cải tiến” như trên từ
mô hình doanh nghiệp của tư bản – công ty hay corporate body.
Chỉ có thể tránh kết cục phá
sản của nền kinh tế với những cái chết kiểu Vinashin, Vinaline… bằng cách xóa
bỏ các công ty nhà nước theo mô hình công ty XHCN quái thai như trên, và thay
hoàn toàn bằng các công ty tư nhân và công ty cổ phần (qua cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước) – các "corporate bodies".
Tất nhiên, đảng và nhà nước ta
không thể làm thế, vì họ không thể để mất “định hướng XHCN”, cho dù điều đó
mang lại sự thịnh vượng của cả dân tộc – trong đó có họ. Với đảng CSVN, quyền
lợi của họ cao hơn quyền lợi dân tộc.
Chỉ còn một khả năng: đảng sẽ
cố giữ các doanh nghiệp nhà nước như thế, và chúng sẽ lần lượt hay cùng nhau
chết thảm như Vinashin, Vinalines và đảng tất nhiên cũng rã đám theo, nhưng các
cán bộ đảng thì đã thành tư bản đỏ rồi.
Chỉ có nhân dân là
luôn phải trả giá đau đớn nhất trong cái chết tất yếu của nền kinh tế “định
hướng” đó. Vấn đề là, nếu đã biết vậy thì nhân dân có sẽ để cho đảng làm vậy
với dân không?
Tôi tin rằng:
không.
PCT
No comments:
Post a Comment