Thursday 22 August 2013

TRUNG QUỐC TRIỂN KHAI NỀN NGOẠI GIAO NƯỚC LỚN (Bonnie s. Glaser và Alison Szalwinski)




Bonnie s. Glaser và Alison Szalwinski
Jamestown Foundation

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Posted by basamnews on August 22nd, 2013

 Ngày 13/8, Viện nghiên cứu Trung Quốc “Jamestown Foundation” của Mỹ công bố bài viết của nhà phân tích Bonnie s. Glaser và Alison Szalwinski, trong đó cho biết ngày 27/6 Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đọc bài phát biểu tại Diễn đàn Hòa bình Thế giới về khái niệm chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc với tên gọi là “Nền Ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc”.
Bài phát biểu của ông Vương Nghị được trình bày trước các học giả Trung Quốc tại Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh trước, nhưng cũng có ý định thông báo với thế giới về sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Bắc Kinh dưới chính quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình. Bài phát biểu của ông Vương Nghị nhắc lại một số quan điểm cũ, kể cả những khái niệm cơ bản được đưa ra trong giai đoạn cuối của Chính quyền Hồ Cẩm Đào và giới thiệu các chủ đề mới thể hiện những thay đổi mạnh mẽ về phong cách và các ưu tiên chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Điều đáng chú ý là ông Vương Nghị khẳng định chính sách đối ngoại của Trung Quốc cần “chủ động” và điều đó cho thấy Bắc Kinh bắt đầu từ bỏ chủ trương chính sách đối ngoại “kiềm chế” của ông Đặng Tiểu Bình. Khái niệm nền ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc lần đầu tiên xuất hiện trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc đầu năm 2013, sau khi Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc kết thúc. Một bài xã luận trên tờ “Thời báo Hoàn cầu” ngày 19/3 của Trung Quốc khẳng định Bấc Kinh cần có một chiến lược ngoại giao phù hợp các điều kiện và mục tiêu quốc gia của Trung Quốc. Nền ngoại giao đó không thể sao chép kinh nghiệm của các nước lớn khác. Nền ngoại giao đó phải là nền ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc. Sau đó hai tuần, tờ “Nhân dân Nhật báo” đãng phát biểu của ông Vương Nghị cho rằng việc Chủ tịch Tập Cận Bình chọn Nga cho chuyến thăm nước ngoài đầu tiên trên cương vị Chủ tịch nước thể hiện sự thành công của “nền ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc”. Cũng trong tháng đó. Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị tuyên bố với các phóng viên tại Diễn đàn Bác Ngao rằng diễn đàn này là một cuộc thử nghiệm tốt của “nền ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc” nhưng không cho biết nội dung chi tiết của chính sách mới. Rõ ràng, bài phát biểu tháng 6/2013 của ông Vương Nghị là lời giải thích quan trọng đầu tiên khái niệm mới về bản chất, “nền ngoại giao nước lớn” cũng có thể được hiểu là “nền ngoại giao cường quốc”, trong đó mô tả chính xác và rõ hơn những tham vọng của Bắc Kinh. Thực tế, hai từ đầu tiên đã được đề cập trên các phương tiện truyền thông Trang Quốc là “cường quốc”, chẳng hạn ông Tập Cận Bình gọi kiểu “quan hệ cường quốc” mới với các nước như Mỹ và Nga. Một số đặc trưng của “nền ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc” do ông Vương Nghị đưa ra là những nguyên lý quen thuộc và tồn tại từ lâu trong nền ngoại giao Trung Quốc. Chúng bao gồm thực hiện “chính sách đối ngoại độc lập, hòa bình” gắn với 5 Nguyên tắc Cùng chung sống Hòa bình, phản đối bá quyền, tôn trọng chủ quyền và không can thiệp công việc nội bộ của nước khác.

Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các nước đang phát triển trong các mục tiêu và lợi ích toàn cầu của Trung Quốc. Bắc Kinh liên tục khuếch trương vị thế của Trung Quốc như một người bạn và đối tác của các nước đang phát triển và khẳng định khi Trung Quốc phát triển, các nước đang phát triển sẽ được hưởng lợi. Phản ứng trước những nghi ngờ của các học giả phương Tây và các nhà lãnh đạo thế giới đang phát triển về việc can dự của Trung Quốc ở các nước đang phát triển là nhân đạo, ông Vương Nghị cố gắng khẳng định Trung Quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ và ủng hộ các nước đó. Khi đề cập các tranh chấp trên biển của Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á và Nhật Bản, ông Vương Nghị nhắc lại đề nghị: “Các bên có thể gác lại bất đồng và cùng nhau khai thác”. Chủ trương này-lần đầu tiên do ông Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979 và phát triển trong những năm 1980- cho thấy các tranh chấp khó giải quyết sẽ được Bắc Kinh gác sang một bên để tránh ảnh hưởng đến các mối quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Do các vấn đề trên biển nóng lên trong những năm gần đây, sức ép trong nước đòi hỏi các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ bỏ chính sách này. Nhiều cư dân mạng và học giả Trung Quốc muốn Bắc Kinh có quan điểm mạnh mẽ về vấn đề lãnh thổ và cho rằng chính sách hiện nay của Bắc Kinh quá mềm mỏng và đi ngược lại lợi ích của người Trung Quốc. Việc ông Vương Nghị lặp lại lập trường của ông Đặng Tiểu Bình, cùng với việc ông ta cam kết theo đuổi một giải pháp hòa bình nhằm giải quyết các tranh chấp Biển Đông cũng như bắt đầu các cuộc thảo luận về Bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông mà ông Vương Nghị đã truyền đạt trong chuyến công du 4 nước ASEAN hồi tháng 5/2013, là bằng chứng cho thấy các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm giảm bớt căng thẳng với các nước, láng giềng của Trung Quốc. Bài phát biểu của Vương Nghị cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của một số vấn đề trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc nổi lên trong những năm gần đây. Do chính sách can dự và hiện diện ngày càng tăng ở nước ngoài của Trung Quốc, vấn đề bảo vệ các công dân Trung Quốc ở nước ngoài nối lên như một ưu tiên cấp bách. Ông Vương Nghị còn đi xa hơn khi phát biểu về sự gia tăng của các công dân Trung Quốc đi du lịch, học tập và làm việc ở nước ngoài. Ông cho biết Chính phủ Trung Quốc “sẽ ủng hộ các công dân Trung Quốc ở nước ngoài một cách mạnh mẽ và tin cậy” để những người Trung Quốc đi du lịch ở nước ngoài cũng có thể thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” của họ.

Đề cập lời kêu gọi thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị đưa khái niệm “Giấc mơ Trung Hoa” vào các mục tiêu chính sách đối ngoại, khích lệ công dân Trung Quốc nỗ lực thực hiện ước mơ của họ ở trong và ngoài nước. Ông Vương Nghị cũng nhắc lại lời kêu gọi xây dựng “Quan hệ Cường quốc kiểu Mới” của Chủ tịch Tập Cận Bình- hiện chính thức được coi là “Kiểu Quan hệ giữa Các nước lớn”, trong đó nhấn mạnh Mỹ và Nga là hai nước hiện Trung Quốc đang tìm cách thiết lập các mối quan hệ như vậy. Ông giải thích mô hình quan hệ này sẽ bao gồm các yếu tố: “tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi, không xung đột và không đối đầu” và áp dụng các nguyên lý cốt lõi của Chính quyền Hồ Cẩm Đào vào khái niệm mới của Chủ tịch Tập Cận Bình, về các tổ chức đa phương, bài phát biểu của ông Vương Nghị trước Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 xác định Liên hợp quốc, G-20, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) là những tổ chức được Trung Quốc quan tâm nhiều hơn trong tương lai, nhưng không coi trọng các diễn đàn khác như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Một số nội dung trong bài phát biểu của ông Vương Nghị cho thấy những xu hướng mới và nhiều khái niệm quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc cần được theo dõi. Chẳng hạn, ông Vương Nghị thừa nhận trong những câu mở đầu của bài phát biểu rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và những thay đổi của Trung Quốc đã thúc đẩy “tư tưởng và hành động” của Trung Quốc trong việc theo đuổi mô hình chính sách đối ngoại mới và tác động của chính sách đó đối với thế giới. Mặc dù bài phát biểu của ông Vương Nghị không đưa ra câu trả lời dứt khoát, nhưng rõ ràng một trong những thành phần quan trọng trong chính sách đối ngoại mới của Bắc Kinh sẽ là cách tiếp cận chủ động hơn trong ngoại giao. Trong bài phát biểu, ông Vương Nghị nhắc đến cụm từ “chủ động” không dưới 13 lần. Hiện nay Trung Quốc đang ở một giai đoạn đặc biệt: Trung Quốc vừa là nước đang phát triển vừa là một nước lớn hoặc cường quốc. Việc nhấn mạnh tiến hành nền ngoại giao chủ động của ông Vương Nghị báo hiệu Trung Quốc đang có ý đồ nhanh chóng thoát khỏi chính sách đối ngoại phản úng thụ động của các chính quyền trước đây. Một sự thay đổi quan trọng liên quan đến nền ngoại giao chủ động hơn của Trung Quốc là Bắc Kinh chính thức thừa nhận triển vọng toàn cầu ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc gánh vác trách nhiệm lớn hơn để giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới. Mấy năm qua, các học giả Trung Quốc kêu gọi Bắc Kinh đóng góp nhiều hơn vào công tác quản lý toàn cầu. Năm 2010, ông Chen Dongxiao, Viện trưởng Viện nghiên cứu Các Vấn đề Quốc tế tại Thượng Hải, cho rằng giữa nhu cầu chiến lược nhằm chia sẻ trách nhiệm, cung cấp sản phẩm công cộng quốc tế với các kế hoạch và việc thực hiện chiến lược hiện nay của Trung Quốc đang có khoảng cách lớn. Nhưng các quan chức chính phủ Trung Quốc tiếp tục không thừa nhận các yêu cầu đó. Trong bài viết mô tả chi tiết “Con đường Phát triển Hòa bình” được công bố năm 2010, ủy viên Quốc vụ Viện Đới Bỉnh Quốc tái khẳng định với thế giới rằng Trung Quốc sẽ là một cường quốc ngày càng hợp tác và hòa bình và sẽ không bao giờ tìm kiếm sự lãnh đạo và cạnh tranh với các cường quốc khác.

Sách Trắng năm 2011 với chủ đề Phát triển Hòa bình của Trung Quốc cho rằng: “Khi sức mạnh tổng hợp của đất nước gia tăng, Trung Quốc sẽ gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế tương ứng với sức mạnh đó” nhưng không cho biết khi nào Bắc Kinh sẽ hành động như vậy. Nhưng bài phát biểu của ông Vương Nghị cho biết Trung Quốc nhận thấy phải theo đuổi một nền ngoại giao chủ động hơn chứ không chỉ đơn thuần theo đuổi một nền ngoại giao thận trọng và kiềm chế. Ông tuyên bố: “Trung Quốc sẵn sàng đáp ứng sự mong đợi của cộng đồng quốc tế” và Trung Quốc “thực hiện trách nhiệm của mình cũng như đóng góp lớn hơn cho nền hòa bình và phát triển chung trên thế giới”. Ông cũng cho rằng Trung Quốc sẵn sàng và mong muốn sử dụng những kinh nghiệm và kiến thức của mình về quan hệ quốc tế để đóng vai trò lãnh đạo bằng cách cung cấp các sản phẩm công cộng và tham gia nhiều hơn vào công tác quản lý toàn cầu. Những tuyên bố đó cho thấy công tác quản lý cũng như mức độ lãnh đạo toàn cầu lớn hơn trong cộng đồng quốc tế sẽ là một phần quan trọng trong chính sách ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc. Một ví dụ cụ thể về sự đóng góp lớn hơn cho cộng đồng quốc tế của Trung Quốc là: lần đầu tiên Trung Quốc đóng góp quân cho lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Mặc dù trước đây Trung Quốc do dự đưa ra cam kết này vì lo sợ bị tố cáo can thiệp công việc nội bộ nước khác, nhưng sự xuất hiện của hàng trăm binh sĩ gìn giữ hòa bình người Trung Quốc ở Mali trong tháng 8/2013 là dấu hiệu của chính sách đã thay đổi. Ngoài việc xác nhận quyết định này, ông Vương Nghị cũng cho biết Bắc Kinh sẽ bắt đầu đóng vai trò lớn hơn trong tiến trình hòa bình Trung Đông. Bằng cách nhấn mạnh đề nghị 4điểm mới của Chủ tịch Tập Cận Bình nhằm giải quyết vấn đề Palextin, ông Vương Nghị tuyên bố việc can dự về ngoại giao ở Trung Đông là kế hoạch rõ ràng của Trung Quốc. Những tuyên bố thể hiện sự quan tâm của Trung Quốc trong việc tham gia xây dựng cộng đồng quốc tế cho thấy hệ thống quốc tế cần “cải cách và phát triển”. Có lẽ, để giải tỏa những nỗi lo ngại cho rằng Bắc Kinh sẽ tìm cách xóa bỏ cơ cấu và hệ thống ra quyết định hiện nay trên thế giới, Bộ trưởng Vương Nghị cam kết Trung Quốc sẽ “tiếp tục duy trì trật tự quốc tế đang tồn tại” mà nhờ đó Bắc Kinh được hưởng lợi rất lớn. Nhưng ông cho biết thêm, cộng đồng quốc tế “đang trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc về tư duy và văn hóa trong nền văn minh hiện đại”, do đó cần xem xét lại và sửa đổi một số lĩnh vực của hệ thống quốc tế. Nhưng ông Vương Nghị không cho biết Bắc Kinh sẽ tìm cách thay đổi những gì và thúc đẩy những thay đổi đó ra sao trong thời gian tới.

***

(Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại”, Trung Quốc, số 4/2013)

Hiện nay, thực lực nước lớn lên xuống thất thường, và kéo theo một vòng điều chỉnh và biến động mạnh mẽ mới trong quan hệ quốc tế. Trong đó ba nhóm quan hệ nước lớn là sôi nổi nhất. Ba nhóm quan hệ này gồm: quan hệ giữa nước lớn truyền thống với nước lớn mới nổi, quan hệ giữa các nước lớn mới nổi và quan hệ giữa các nước lớn truyền thống. Từ góc độ Trung Quốc, việc nắm bắt một cách sâu sắc đặc tính chủ yếu và xu thế phát triển của quan hệ nước lớn hiện nay, điều hòa tốt cho ba nhóm quan hệ này, sẽ có lợi hơn cho việc bảo vệ lợi ích quốc gia, thúc đẩy thế giới hòa bình ổn định và phát triển.

Khái niệm “các nước BRICS” được đưa ra hơn 10 năm trước, sau đó trên chính trường quốc tế, cũng rất nhanh đã dấy lên đề tài nóng về trọng tâm kinh tế và quyền lực thế giới chuyển dịch sang phía Đông. Nhưng điều thực sự khiến cho mối quan hệ giữa nước lớn mới nổi với nước lớn truyền thống tập trung vào trung tâm chính trị toàn cầu vẫn là cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế bùng nổ năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế và nợ công châu Âu đột nhiên xuất hiện, khiến cho các nước lớn truyền thống ứng phó không kịp, tổn thất vô cùng nghiêm trọng, còn các nền kinh tế mới nổi cố gắng thoát khỏi bóng đen của khủng hoảng, kinh tế vẫn duy trì đà tăng trưởng nhanh. Các nước lớn phương Tây buộc phải thừa nhận, các tổ chức quốc tế được xây dựng từ các nước lớn truyền thống đã không thể đối phó với cuộc khủng hoảng trước mắt; sự hợp tác của các nền kinh tế mới nổi là không thể thiếu. “Nhóm G20” đang nổi lên trên vũ đài chính trị trong tình hình khủng hoảng này. Bên cạnh việc hợp tác với các nước mới nổi để đối phó với cuộc khủng hoảng, phương Tây bắt đầu xem xét một cách nghiêm túc các nước lớn mới nổi có ý nghĩa gì đối với châu Âu và Mỹ, cũng như vấn đề đối phó với lực lượng này như thế nào.

Việc Mỹ “quay trở lại châu Á” chính là kết quả của những xem xét này, cũng khiến cho quan hệ giữa nước lớn truyền thống và nước lớn mới nổi đột nhiên trở thành tiêu điểm của quan hệ quốc tế. Việc Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông chắc chắn có nhiều toan tính, bao gồm tham gia một cách sâu sắc hơn vào nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương đang tăng trưởng nhanh chóng, cũng như đề phòng sự phát triển của Trung Quốc, đặc biệt là phát triển quân sự… Nhưng cho dù ý đồ của Mỹ như thế nào, thì việc Mỹ đưa ra “Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương” (TPP), tăng cường liên minh quân sự truyền thống với các nước như Nhật Bản, Ôxtrâylia…, nâng đỡ Việt Nam và Philíppin trong vấn đề tranh chấp Biển Đông…, làm tăng thêm tình hình căng thẳng khu vực châu Á-Thái Bình Dương là sự thực không phải bàn cãi. Việc làm thế nào để giải quyết vấn đề chung sống hòa bình giữa Trung Quốc và Mỹ trở thành thách thức ngoại giao quan trọng mà hai nước phải đối diện.

Trong bối cảnh các nước lớn mới nổi trỗi dậy, Liên minh châu Âu (EƯ) cũng điều chỉnh chiến lược đối ngoại không thay đổi từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai của mình. Lâu nay, các nước lớn như Anh, Pháp, Đức luôn coi liên minh xuyên Đại Tây Dương là trụ cột quan trọng nhất trong chiến lược đối ngoại của các nước này. Tuy nhiên những năm gần đây, ngày càng nhiều nước châu Âu coi các nền kinh tế mới nổi là trụ cột mới của mình. Trong văn kiện chính sách đối với Trung Quốc được ban hành đầu năm 2009, Bộ Ngoại giao Anh nhấn mạnh từ việc cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế, đối phó với biến đổi khí hậu, thực hiện “mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”, cho đến việc giải quyết vấn đề điểm nóng trong khu vực và trên thế giới, đều không thể tách rời Trung Quốc. Năm 2012, Đức đã khởi động cơ chế tham vấn cấp chính phủ hàng năm với Trung Quốc, cơ chế này trước đây Đức chỉ thiết lập với một số nước như Pháp …. Bộ Ngoại giao Đức công khai gọi quan hệ Đức-Trung Quốc là “quan hệ đặc biệt”. Ngoài Trung Quốc, các nước lớn mới nổi như Ấn Độ, Braxin… đều đã trở thành trọng điểm ngoại giao của Liên minh châu Âu.

Sự hợp tác đang trên đà phát triển mạnh mẽ của các nước BRICS là biểu hiện đẹp nhất trong quan hệ quốc tế hiện nay, tác động đến tinh thần của quan hệ nước lớn. Tháng 3/2013, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ năm của các nước BRICS tuyên bố thành lập Ngân hàng phát triển BRICS và kho dự trữ ngoại hối, đánh dấu sự hợp tác giữa các nước lớn mới nổi giành được những tiến triển mang tính lịch sử. Ngân hàng phát triển BRICS có thể gọi là Ngân hàng thế giới phiên bản BRICS, với mục đích là giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết vấn đề tài chính phát triển lâu nay; kho dự trữ ngoại hối BRICS là Quỹ tiền tệ quốc tế phiên bản BRICS, với mục đích giúp đỡ các thị trường mới nổi đối phó với sự không ổn định của thị trường quốc tế. Cùng với việc sức hội tụ của BRICS tăng lên, lĩnh vực hợp tác không ngừng mở rộng, các nước lớn mới nổi với tư cách là lực lượng chỉnh thể, ảnh hưởng và vai trò của BRICS sẽ tăng lên hơn nữa. Và quan hệ giữa các nền kinh tế mới nổi cũng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của quan hệ nước lớn.

Do Chiến tranh Lạnh kết thúc, mối quan hệ giữa các nước lớn phương Tây trở nên lỏng lẻo, ấm lên một cách rõ rệt, luận điệu “lấy các nước phương Tây đã được nâng cấp để đối phó với các nước phi phương Tây đang trỗi dậy” xuất hiện ở châu Âu và Mỹ đã đưa tới sự quan tâm của giới nghiên cứu chiến lược quốc tế. Việc các nước lớn truyền thống phương Tây tái xích lại gần nhau vừa có nguyên nhân trực tiếp là liên kết với nhau để cùng thoát khỏi khó khăn kinh tế, vừa có những toan tính sâu xa là kết hợp lại để đối phó với sự trỗi dậy của các nền kinh tế mới nổi. Về mặt kinh tế, hoạt động “xích lại gần nhau” của các nước lớn truyền thống phương Tây diễn ra liên tục, như Mỹ và Liên minh châu Âu tuyên bố đàm phán xây dựng “Hiệp định đối tác đầu tư và thương mại xuyên Đại Tây Dương” (TTIP), Nhật Bản gia nhập đàm phán “Hiệp  định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương”, cũng như châu Âu và Nhật Bản sẽ khởi động đàm phán “Hiệp định quan hệ đối tác kinh tế” (EPA)… về mặt chiến lược và an ninh, nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Mỹ Barack Obama tăng cường một cách rõ ràng chiến lược liên minh, đã hình thành mô hình hợp tác mới “chia sẻ trách nhiệm, cùng nhau hành động” với châu Âu ở các khu vực như châu Phi, Trung Đông…, đồng thời nỗ lực “kéo châu Âu vào châu Á”, cùng xây dựng trật tự an ninh châu Á-Thái Bình Dương mới, Nhật Bản bên cạnh việc tăng cường liên minh quân sự với Mỹ, cố gắng tìm kiếm sự hợp tác quân sự và an ninh với NATO và các nước Liên minh châu Âu.

Quan sát ba nhóm quan hệ nêu trên có thể nhận thấy ba nhóm quan hệ này có một số đặc tính rõ rệt, như tính đa nguyên, tính liên kết, tính dễ thích nghi… Tính đa nguyên phản ánh sự phức tạp và mâu thuẫn trong quan hệ nước lớn hiện nay. Do lợi ích giữa các nước lớn là “trong anh có tôi, trong tôi có anh”, đan xen lẫn nhau, nên khó có thể nói rõ một cách khách quan tính chất của quan hệ nước lớn hiện nay. Nhận biết được đặc tính này vô cùng quan trọng, có lợi cho việc bình tĩnh phân tích tình hình, tránh vì phán đoán sai lầm mà phản ứng không thích đáng. Tính liên kết chủ yếu chỉ sự liên hệ mật thiết giữa ba nhóm quạn hệ nước lớn. Hiệu ứng quần thể của các nước lớn mới nổi ngày càng nổi bật, vì vậy việc mỗi nhóm quan hệ nước lớn xuất hiện điều chỉnh, đều sẽ gây nên phản ứng dây chuyền ảnh hưởng đến các mối quan hệ khác. Và tính phức tạp và tính liên kết lại quyết định tính dễ thích nghi của quan hệ nước lớn. Mô hình quan hệ trước đây, như liên minh phương Tây do Mỹ chủ đạo và châu Âu đi theo, cũng như đối kháng tập đoàn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh…, đều khó có thể thích ứng với tình hình mới. Hiện nay, các nước lớn chủ yếu đều đang tìm kiếm mô hình phát triển quan hệ nước lớn mới trong thời kỳ mới. Cho nên cũng có thể nói rằng quan hệ nước lớn trong giai đoạn hiện nay đang ở thời kỳ điều chỉnh.

Quan hệ nước lớn thay đổi nhanh chóng và những đặc tính mới của nó, đưa tới thách thức mới và nhiệm vụ mới cho ngoại giao Trung Quốc. Trước tiên, ngoại giao nước lớn cần phải xem xét một cách tổng hợp nhận thức được vai trò của các nước BRICS và các nước lớn truyền thống đều quan trọng như nhau. Trên chính trường quốc tế, luận điệu “BRICS đang yếu đi” là không đáng tin cậy, và càng không thể để các nước phương Tây chia rẽ các nước lớn mới nổi. Sự phát triển của các nền kinh tế mới nổi sẽ không thuận buồm xuôi gió, nhưng xu thế trỗi dậy là không thể ngăn cản. Do có giai đoạn phát triển kinh tế xã hội tương tự, lại có hoàn cảnh gần giống nhau trong trật tự quốc tế hiện nay, Trung Quốc và các thể kinh tế mới nổi khác càng có nhiều lập trường và lợi ích tương đồng hơn. Tầm quan trọng của các nước lớn mới nổi đối với Trung Quốc, không chỉ biểu hiện ở sự ủng hộ lẫn nhau trên chính trường quốc tế, mà còn do Mỹ và châu Âu bị tác động của khủng hoảng tài chính, nên vai trò của các nước lớn mới nổi khác càng tăng lên rõ rệt đối với sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Những năm gần đây, thương mại và đầu tư giữa Trung Quốc với các nền kinh tế mới nổi tăng trưởng ổn định đã chứng minh một cách rõ ràng quan điểm này. Tóm lại, việc tăng cường hợp tác toàn diện với các nước lớn mới nổi, phù hợp với lợi ích căn bản của Trung Quốc. Đương nhiên, trong trật tự quốc hiện nay, Mỹ và châu Âu vẫn chiếm un thế, và là đối tác kinh tế quan trọng nhất của Trung Quốc, vì vậy địa vị của Mỹ và châu Âu với tư cách là trọng điểm ngoại giao của Trung Quốc cũng không nên thay đổi. Trung Quốc phải tiếp tục cố gắng tìm kiếm con đường cùng chung sống với Mỹ, xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới với châu Âu.

Thứ hai, việc các nước lớn phương Tây tăng cường liên minh truyền thống, cần được coi trọng. Một mặt, phải nhận thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của các nước lớn mới nổi trên chính trường quốc tế, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đối kháng tập đoàn theo kiểu Chiến tranh Lạnh rất khó nhen nhóm trở lại; mặt khác, cũng phải nhận thấy sự phát triển của các nước BRICS chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cục diện lợi ích hiện nay, và các nước phát triển truyền thống sẽ không chịu để yên. Phải đề phòng việc các nước lớn truyền thống lợi dụng ưu thế kinh tế, tài chính, khoa học kỹ thuật và địa vị chu đạo mà các nước này đang nắm giữ trong các tổ chức quốc tế hiện nay, để liên kết kiềm chế các nền kinh tế mới nổi. “Hiệp định đối tác đầu tư và thương mại xuyên Đại Tây Dương” mà châu Âu và Mỹ tìm cách xây dựng không chỉ như một khu thương mại tự do thông thường, điều quan trọng hơn nữa là muốn thiết lập tiêu chuẩn kỹ thuật và quy định thống nhất cho sự giao lưu kinh tế qua lại, để duy trì tốt hơn quyền chủ đạo của phương Tây trong việc hoạch định các quy tắc kinh tế quốc tế.

Thứ ba, việc hình thành cục diện lợi ích quốc tế mới sẽ trải qua một quá trình cạnh tranh rất gay gắt. Trung Quốc muốn thích ứng với hiện thực cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn thì một mặt, không ngừng mở rộng lĩnh vực hợp tác với các nước khác, đồng thời tích cực điều chỉnh một cách có hiệu quả cơ cấu kinh tế trong nước, để tiếp tục nâng cao sức cạnh tranh quốc tế; mặt khác, phải chủ động tham gia việc chế định các quy tắc quốc tế. Cải cách mở cửa 30 năm qua, Trung Quốc thông qua hội nhập quốc tế, đã chấp nhận các quy tắc quốc tế để phát triển, trong tương lai Trung Quốc phải thông qua việc cùng với nước lớn khác tham gia chế định và cải cách các quy tắc quốc tế./.



No comments:

Post a Comment

View My Stats