CARL MINZNER
China
at the Tipping Point?, ChinaFile, ngày 11 Tháng Bảy 2013.
Mai Xương Ngọc dịch
August 2, 2013
Nhiều người dự đoán rằng sự
phát triển nhanh chóng của Trung Quốc trong vài thập kỷ qua chắc chắn sẽ dẫn
đến tự do hóa dần dần. Tăng trưởng kinh tế được dự đoán sẽ tạo ra một chuỗi các
sự kiện thay đổi, trước tiên là cho xã hội, sau đó đến luật pháp, và cuối cùng
là chính trị. Các sự kiện diễn ra dường như đã khẳng định những dự đoán trên.
Khi chính quyền Trung Quốc mở cửa nền kinh tế vào cuối thế kỷ XX, họ cũng khởi
động những cải cách sâu rộng đối với thể chế lập pháp và tư pháp của quốc gia.
Chính sách cải cách và mở cửa đã mang lại cho Trung Quốc những thay đổi lớn
chưa từng có, đưa Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm
2001. (Ảnh: Internet)
Tuy nhiên, những sự kiện trong thập kỷ vừa qua đã làm dấy
lên những nghi vấn về các giả định đó. Từ năm 2000 đến năm 2011, GDP bình quân
đầu người của Trung Quốc đã nhiều hơn gấp 5 lần, tăng vọt từ 949 USD đến 5.445
USD. Nhưng chế độ độc đảng lãnh đạo vẫn còn nguyên vẹn dưới quyền của Đảng Cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ), và chính quyền Trung Quốc đã quay lưng lại với nhiều
cuộc cải cách tư pháp mà chính họ đã ban hành trong những năm 1980 và 1990. Các
luật sư đã phải chịu đựng những áp lực gia tăng. Các chiến dịch chính trị cảnh
báo chống lại các chuẩn mực của nhà nước pháp quyền đã lan tỏa trong các tòa án.
Theo các chính sách mới ưu tiên hàng đầu cho “duy trì ổn định” (Weiwen), chính
quyền trung ương đã ồ ạt tăng tài trợ cho các tổ chức ngoài khuôn khổ pháp luật
nhằm mục đích chuyển hướng, hạn chế, và triệt tiêu sự bất bình của công dân.
Những chuyển đổi này đã bóp nghẹt các thể chế có khả năng
giảm bớt bất mãn và khắc phục những yếu kém, đó là những cơ chế giữ vai trò
quan trọng cho sự tiếp tục tồn tại lâu bền của Đảng Cộng sản Trung Quốc với tư
cách là một chế độ độc tài. Những chuyển đổi này đã thúc đẩy tình trạng bất ổn
xã hội, biến nỗi bất bình của công dân thành một làn sóng biểu tình đường phố
thay vì thể chế hóa quyền tham gia về chính trị hoặc tư pháp. Và việc này đã
dẫn đến những lo ngại mới ở trung ương trước mối nguy hiểm do các cá nhân quan
chức ĐCSTQ (ví dụ như vết nhơ Bạc Hy Lai, Bí thư Trùng Khánh) tiếm chiếm một số
thành phần trong bộ máy “duy trì ổn định” vì mục đích riêng. Chính xác là vì
những lý do này, một số lượng ngày càng tăng gồm các quan chức, học giả và các
nhà hoạt động đã kêu gọi chính quyền trung ương khôi phục lại các cải cách luật
pháp đang bị suy yếu khi giới lãnh đạo kế tiếp nổi lên vào tháng 11 năm 2012.
Trung Quốc thực sự có thể đang ở điểm giao thời. Nhưng
không rõ là nước này sẽ nghiêng về phía nào. Các nhà chức trách có thể khởi
động lại cuộc cải cách luật pháp như là một phần trong chương trình chuyển đổi
toàn diện về chính trị và thể chế. Hoặc họ có thể bác bỏ, gây rủi ro xảy ra rối
loạn xã hội và chính trị lớn hơn. (1)
Trong những năm 1970 và 1980, chính quyền ĐCSTQ đã quay
lưng lại với thập kỷ theo đuổi chủ nghĩa chính trị cực đoan và các chính sách
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Họ khởi động những cải cách pháp lý rộng lớn nhằm xây
dựng những cấu trúc quản lý mới cho Trung Quốc.
Các quan chức đã mở trở lại các trường Luật bị đóng cửa
trong thời kỳ xảy ra tình trạng hỗn loạn của Cách mạng Văn hóa (1966-1976). Họ
áp dụng trao đổi học thuật và chuyên môn để tích cực thu nhận các khái niệm
pháp lý từ nước ngoài. Họ đã ban hành hàng trăm đạo luật và quy định mới, tạo
ra một khuôn khổ toàn diện về luật dân sự, thương mại, hình sự và hành chính.
Chính quyền khuyến khích các phiên tòa xét xử theo các luật mới được ban hành,
được nhìn nhận như là một nơi ưu tiên giải quyết các khiếu nại và tranh chấp
dân sự hoặc thương mại thông thường. Trong năm 1989, chính quyền Trung Quốc
thậm chí còn ban hành một bộ luật tố tụng hành chính cho phép những công dân
bình thường có các quyền hạn chế nhằm kiện các quan chức nhà nước ra tòa.
Cải cách tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1990. Các
quan chức chuyên nghiệp hóa bộ máy tư pháp, từ bỏ thông lệ tuyển dụng các cựu
sĩ quan quân sự làm nhân viên tòa án. Họ loại bỏ các định nghĩa về luật sư như
là “những công nhân pháp lý của nhà nước” và tư nhân hóa nghề luật sư. Đến đầu
những năm 2000, các công ty luật quốc doanh của những năm 1980 đã mở lối cho sự
bùng nổ các công ty tư nhân, trong nước cũng như nước ngoài. Trong năm 1997,
chính quyền trung ương đã thông qua “nhà nước vì pháp quyền” (yifa zhiguo) như
là một khẩu hiệu cốt lõi của Đảng. Các sửa đổi hiến pháp diễn ra đồng thời hai
năm sau đó. Cải cách pháp lý thậm chí nổi lên như một chủ đề trong quan hệ đối
ngoại của Trung Quốc, khi các nhà ngoại giao Mỹ và Trung Quốc đồng ý khởi đầu
các cuộc trao đổi hợp tác về cải cách tư pháp.
Theo lẽ tự nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn thúc
đẩy quyền lợi của họ thông qua những cải cách này. Về ý thức hệ, họ muốn có một
nguồn chính danh khác để thay thế các nguyên tắc cách mạng của phe Mao-ít và
giữ quyền cai trị. Trong thực tế, họ muốn có các cơ chế mới giúp giải quyết các
xung đột xã hội gia tăng bởi sự phát triển kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng.
Luật pháp, tranh tụng, và tòa án dường như chính là giải pháp. Về mặt hành
chính, lãnh đạo trung ương tìm kiếm những cách thức mới để giám sát các quan
chức địa phương và phản ứng tốt hơn trước những nan giải về vấn đề người ủy
thác – người đảm nhiệm diễn ra tràn lan nội trong bộ máy quan liêu. Họ cũng
muốn thu thập những thông tin tốt hơn về các vấn đề mà Trung Quốc phải đối mặt
ở trong nước. Việc cho phép công dân có quyền hạn chế để thách thức các quan
chức địa phương thông qua các kênh tòa án, hoặc để bày tỏ ý kiến thông qua các
kênh pháp luật, hứa hẹn sẽ giải quyết được những mối lo ngại đó.
Tương lai của cải cách luật pháp
Như học giả Andrew Nathan lưu ý trong năm 2003, những cải
cách này sẽ giúp tăng cường sự ổn định nội bộ của nhà nước Trung Quốc. (2)
Họ thể chế hóa sự cai trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Họ chuyển những bất mãn phổ biến (liên quan đến những vi phạm quyền công dân
hoặc lạm dụng chức quyền) vào trong những thể chế thuộc hệ thống chính trị hiện
hành, thay vì cho các tổ chức cực đoan ngầm tìm cách lật hệ thống đảng – nhà
nước. Cải cách pháp lý cũng đóng góp vai trò quan trọng trong chính sách đối
ngoại. Ví dụ các cuộc thảo luận về nhà nước pháp quyền với các chính phủ nước
ngoài cung cấp môt diễn đàn chính trị dễ chấp nhận hơn để tranh luận về nhân
quyền trước khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001.
Cải cách trung ương khuyến khích các công chức từ trên
trở xuống đẩy mạnh hơn nữa thay đổi thể chế dưới ngọn cờ của nhà nước pháp
quyền. Vào cuối những năm 1990, giới học thuật về luật của Trung Quốc cũng bắt
đầu nóng với các cuộc thảo luận xung quanh chủ nghĩa hợp hiến và tính tối cao
của hiến pháp (xianfa zhishang). Năm 2001, Tòa án nhân dân tối cao (cơ chế tư
pháp cao nhất của Trung Quốc) đã tiến hành một bước đột phá cho phép một tòa án
tỉnh lẻ thực sự áp dụng hiến pháp (dù không có quyền tài phán) của Trung Quốc
trong một trường hợp riêng lẻ. Một số tòa án địa phương đã bắt đầu mở rộng giới
hạn quyền lực của mình, tuyên bố một cách độc lập về tính vô hiệu lực của các
quy tắc và quy định địa phương trái với luật quốc gia. (3)
Các công dân áp dụng những phương thức mới để bảo vệ lợi
ích riêng của họ. Những vụ tranh tụng dân sự và hành chính tăng lên. Nông dân
sử dụng những lời lẽ nhà nước pháp quyền của chính quyền trung ương để thách
thức những sách nhiễu và việc thu hồi đất đai bất hợp pháp ở địa phương. Đến
đầu những năm 2000, một đội ngũ luật sư công ích và các nhà hoạt động pháp lý
(ví dụ như ông Chen Guangcheng) đã xuất hiện. Họ hợp nhất các vụ kiện công ích
với những chiến lược truyền thông có hiểu biết để thúc đẩy cải cách sâu rộng
hơn, và đạt được một vài thành công vang dội. Năm 2003, sau khi một người nhập
cư có tên là Sun Zhigang bị thiệt mạng dưới bàn tay của chính quyền thành phố
Quảng Châu, ba học giả luật đã gửi một bản kiến nghị đến cơ quan lập pháp quốc
gia để thách thức tính hợp pháp và hợp hiến của hệ thống hành chính tạm giam
ngoài khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, giới truyền thông rộng lớn đã tạo ra sự
náo động dư luận về việc lạm dụng chức quyền trong trường hợp của ông Sun và
những trường hợp tương tự. Đáng chú ý là chính quyền trung ương nhường bước –
bãi bỏ toàn bộ hệ thống tạm giam trên toàn quốc. (4)
Phản ứng thuận nghịch
Mặc dù có những dấu hiệu khả
quan và đáng hy vọng trong gần một thập kỷ trước, các quan chức đã quay lưng
lại với những cải cách trước đó của họ. Một số lo ngại là hoàn toàn có
thực. Những cải cách cuối thế kỷ XX được tạo ra để hướng các tranh chấp
dân sự và thương mại vào các phiên tòa của tòa án địa phương. Nhưng vùng nông
thôn Trung Quốc lại có nguồn lực hạn chế về pháp lý. Vẫn thiếu thẩm phán đã qua
đào tạo và luật sư được cấp giấy phép. Tòa án vẫn bị yếu kém về mặt thể chế và
thường gặp khó khăn trong việc thực thi phán quyết của họ. Khi Trung Quốc bước
vào thế kỷ XXI, những vấn đề như vậy dẫn đến đối đầu công khai giữa các tòa án
địa phương và người dân bị thiệt hại đòi công lý, cũng như việc tăng vọt số
lượng kiến nghị và kháng nghị ngoài khuôn khổ pháp luật gửi đến các cấp chính
quyền cao hơn có liên quan đến các quyết định của tòa án cấp thấp hơn.
Những mối lo ngại khác hiển
nhiên mang tính chính trị. Phương tiện truyền thông nhà nước đã cảnh cáo rằng
“các khái niệm tư pháp…không phù hợp với niềm tin quốc gia [Trung Quốc] đã ‘từ
phương Tây thổi vào phương Đông’” (5). Các quan chức của Đảng cảnh báo rằng một
số thẩm phán đã sử dụng sai các khái niệm như “tính tối cao của pháp luật” như
một cái cớ để tránh hoặc phản đối giới lãnh đạo Đảng trong những trường hợp xét
xử. (6)
Điều này đã tạo ra một sự bước
giật lùi. Kể từ đầu những năm 2000, chính quyền Trung Quốc đã lái các tranh
tụng công dân ra khỏi các phiên tòa, nơi giải quyết sự vụ theo pháp luật. Thẩm
phán phải đổi mặt với những áp lực mới trong việc giải quyết các vụ án thông
qua hòa giải kín. Các cơ quan hòa giải cộng đồng có niên đại từ thời kỳ Chủ
tịch Mao Trạch Đông (mất năm 1976) đã được “phủi bụi” và phục hồi. “Các phiên
họp phối hợp” mới ngoài khuôn khổ pháp luật do Đảng lãnh đạo đã được tổ chức,
dưới đề mục hòa giải, để xử lý những trường hợp mà các quan chức lo sợ có nhiều
khả năng dẫn đến phản kháng xã hội.
Trong một số lĩnh vực, những nỗ lực này đã tạo ra những
thử nghiệm có ý nghĩa ở cấp địa phương, đáp ứng nhu cầu của nông thôn tốt hơn
hơn so với các kênh pháp lý chính thức khác được đề cao trong cuối thế kỷ XX.
Trong những lĩnh vực khác, những nỗ lực này đã trở thành lý do cơ bản rất thuận
lợi cho chính quyền địa phương để hoàn toàn từ bỏ các quy chuẩn pháp lý khi họ
tìm cách củng cố ổn định xã hội bằng mọi giá, bất kể bằng cách triệt tiêu nỗi
bất bình chính đáng của các kiến nghị cá nhân hoặc bằng cách làm bẹp các nhóm
khiếu nại mà không cần tới cơ sở pháp lý, nhưng được ủng hộ bởi nhiều người dân
nổi giận.
Các cơ quan Đảng cũng đã cố gắng kiểm soát các thẩm phán
ương ngạnh về mặt chính trị. Trong năm 2006, các quan chức ĐCSTQ phát động
chiến dịch mới trong hệ thống tòa án để nhấn mạnh lòng trung thành với Đảng và
cảnh báo chống lại các chuẩn mực của nhà nước pháp quyền phương Tây. Năm 2008,
chính quyền trung ương đã đưa một viên chức ĐCSTQ chính thức trở thành người
đứng đầu Tòa án Nhân dân Tối cao dù không có hiểu biết về pháp lý. Tiếp theo đó
là cái gọi là Ba chiến dịch Tối cao (sange zhishang) – một nỗ lực để nhắc nhở
các thẩm phán rằng các chính sách của ĐCSTQ và “ý chí nhân dân” là tương đương
(hoặc đứng trên) hiến pháp. Không để cho ai bỏ qua thông điệp này, cả hai
chương trình giảng dạy về luật và kỳ thi luật quốc gia đã được sửa đổi để nội
dung của những chiến dịch đó trở thành những chủ đề bắt buộc.
Luật sư đã phải chịu đựng những áp lực gia tăng. Các
chiến dịch của Đảng từng gọi họ là “công nhân pháp luật xã hội chủ nghĩa” và
gây sức ép để tạo ra các “tế bào” của ĐCSTQ trong các công ty luật. Để lấy được
giấy phép hành nghề luật sư, giờ đây họ bắt buộc phải thề trung thành với Đảng.
Các nhà chức trách ngày càng sách nhiễu và ngược đãi các luật sư công ích nổi
tiếng và các nhà hoạt động pháp lý bằng cách đóng cửa một số tổ chức và buộc
người khác đi tù, bị quản thúc tại gia, cũng như biến mất định kỳ hoặc bị tra
tấn.
Nói ngắn gọn, các nhà lãnh đạo ĐCSTQ đang cố gắng trung
lập hóa những áp lực của nhà nước pháp quyền mà chính họ đã phát động vào cuối
thế kỷ XX. Họ luôn tìm cách khóa các cuộc thảo luận (chủ nghĩa hợp hiến), các kênh
pháp lý (phiên tòa), cùng các lực lượng xã hội (luật sư) mà các nhà hoạt động
đã sử dụng để vận động cho thay đổi lớn hơn. Và họ đã tái khẳng định quyền kiểm
soát các tác nhân nhà nước (các thẩm phán và tòa án), những người có thể bị cám
dỗ để quên đi quyền kiểm soát hiện thực của Đảng Cộng sản.
Ở nhưng nơi nào vắng bóng những mối lo ngại, công cuộc
cải cách vẫn tiếp tục. Ví dụ, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, chính quyền Trung
Quốc đã triển khai chương trình thí điểm không phạt giam người phạm tội chưa
đến tuổi vị thành niên. Luật tố tụng hình sự 2012 tạo thêm sự che chở cho người
chưa đến tuổi vị thành niên trước sự thẩm vấn và xét xử. Đối với án tử hình, cơ
quan tư pháp Trung Quốc đã có những nỗ lực để tăng tính minh bạch và cải thiện
việc xem xét các phán quyết. Kết quả là, các chuyên gia nước ngoài ước tính
rằng số lượng các vụ hành quyết ở Trung Quốc đã giảm một nửa kể từ năm 2007,
xuống khoảng bốn ngàn vụ năm . (7)
Các chính sách trung ương khắc nghiệt đã tạo ra một loạt
các hiệu ứng trái chiều. Điều trớ trêu là chúng đã làm gia tăng tình trạng bất
ổn xã hội. Nhiều người dân bất bình về môi trường hoặc đất đai chống lại chính
quyền địa phương đã đi đến kết luận rằng cơ hội tốt nhất để được đền bù không
nằm trong các tổ chức pháp lý nhà nước, nơi chúng đang suy yếu dần dần. Thay
vào đó, họ đang ngày càng viện đến các hoạt động đường phố tập thể trực tiếp
(và đôi khi là bạo động), để tìm cách ép các quan chức trung ương can thiệp và
chính quyền địa phương phải nhượng bộ. Đáp lại, chính quyền trung ương đã tăng
cường nguồn kinh phí và thế lực của các cơ quan an ninh trong nước. Điều này đã
cho phép một số chính quyền địa phương phân cấp thành các tỉnh trưởng gần như
thời phong kiến, trong đó các quan chức dùng kinh phí khổng lồ (và những biện
minh chính trị đúng đắn về “sự duy trì ổn định xã hội”) để triệt tiêu các khiếu
nại hợp pháp của công dân, che giấu các sai lầm của họ, cũng như làm giàu cho
bản thân bằng tham nhũng.
[*] Carl Minzner là Giáo sư Luật tại Đại học Fordham. Một chuyên gia về
pháp luật và quản lý nhà nước Trung Quốc, Minzner đã viết nhiều về các chủ đề
này trong cả tạp chí khoa học và báo chí đại chúng. Các bài viết thể hiện quan
điểm cá nhân của ông đã xuất hiện trên tờ New York Times, Los Angeles Times, và
Christian Science Monitor.
Ông đã từng là Cố vấn cao cấp của Ủy ban Đđiều hành Quốc hội về các vấn đề
Trung Quốc. Ông cũng là một thành viên của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại về các
vấn đề quốc tế năm 2006-2007, đồng thời là thành viên Ngành Giáo dục pháp lý
liên kết Đại học Yale – Trung Quốc tại Học viện Xibei về Chính trị và Luật pháp
ở Tây An, Trung Quốc. Ông cũng làm việc với tư cách cộng sự cấp cao tại
McCutchen & Doyle (Palo Alto, CA), và một thư ký luật cho ông Hon. Raymond Clevenger
của Tòa án Phúc thẩm Liên bang. Minzner có bằng cử nhân của Đại học Stanford,
bằng M.I.A của Đại học Columbia về vấn đề quốc tế và công cộng, và một bằng
Luật của trường Luật Columbia. [*]
-------------------------------
GHI CHÚ
1. Một số nội dung và ngôn từ được chuyển thể từ bài viết ” Trung Quốc quay
lưng với Luật” của Carl Minzner, American Journal of Comparative Law 59 (Thu
2011): tr. 935–84.↩
2. Andrew J. Nathan, “Thay đổi Lính canh Trung Quốc: Khả năng phục hồi sự chuyên chế,” Journal of Democracy 14 (tháng 1 năm 2003):. 13-15 ↩
3. Keith J. Hand, “Hiểu hệ thống Trung Quốc để giải quyết xung đột pháp lý,” Columbia Journal of Asian Law (sắp xuất bản năm 2013). ↩
4. Keith J. Hand, “Sử dụng Luật cho mục đích chính đáng: Sự cố Sun Zhigang và Sự nổi lên các hình thức công dân hành động ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,”
Columbia Journal of Transnational Law 45, no. 1 (2006): 127–31.↩.
5. Wei Lihua and Jiang Xu, “Sifa shenpan zhong de renmin qinghuai yu qunzhong luxian” [Tình cảm và đường lối đại chúng trong việc thử nghiệm tư pháp], trang Web tòa án Trung Quốc, truy cập
ngày 22 tháng 6 năm 2011, chỉ có tiếng Trung Quốc: www.chinacourt.org / html /
article/201106/22/455318.shtml. ↩
6. Minzner, ” Trung Quốc quay lưng với Luật,” Minzner, 947. ↩
7. “Dui Hua ước tính 4.000 vụ hành quyết ở Trung Quốc, hoan nghênh đối thoại
công khai”, trang Web của Dui Hua, ngày 12 Tháng 12 năm 2011, tại
http://duihua.org/wp/?page_id=3874. ↩
8. Richard Pipes, Nước Nga dưới chế độ cũ (London: Weidenfeld và Nicolson, 1974),
295 ↩.
*
*
CARL MINZNER
China
at the Tipping Point?, ChinaFile, ngày 11 Tháng Bảy 2013.
Mai Xương Ngọc dịch
August 3, 2013
Điều gì sẽ trở thành tương lai của hệ thống chính trị độc
tài Trung Quốc?
Cải cách trước những phản ứng hay rơi trở
lại hỗn loạn?
Sự sụp đổ của ngôi sao đang lên
Bạc Hy Lai của Đảng trong nửa đầu năm 2012 đã thu hút sự chú ý đáng kể về những
vấn đề này. Lãnh đạo trung ương bày tỏ lo ngại về khả năng của một trong số
những thành viên của họ nhằm thâu tóm quyền lực cá nhân khổng lồ, không bị chế
ngự, đồng thời thách thức các chuẩn mực lãnh đạo tập thể đã tồn tại từ thời kỳ
đầu của đổi mới hai thập kỷ trước. Các học giả và quan chức có tư tưởng tự do
lợi dụng sự kiện Bạc Hy Lai để chỉ trích việc Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
quay lưng chống lại các cải cách pháp lý kể từ đầu những năm 2000.
Một biếm họa được đưa lên mạng Sina Weibo của
Trung Quốc cùng với tin tức về một chỉ thị 7 điểm mà các học giả ở Trung Quốc
không được phép nói đến. (Ảnh: Sina/Internet)
Trong năm qua, đã xuất hiện dấu
hiệu cho thấy rằng những phản ứng chống lại cải cách pháp lý giờ đây đã có thể
tạo ra một bước giật lùi. Chính quyền trung ương đã tiến hành việc giáng cấp bộ
máy pháp lý – chính trị của ĐCSTQ. Tổng bí thư mới của ĐCSTQ, ông Tập Cận Bình,
đã bắt đầu khôi phục lại tiếng nói liên quan đến cuộc cải cách luật và tư pháp
đang bị lấn át trong những năm gần đây. Các nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng đã công
khai kêu gọi áp dụng các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền trong các cuộc đối
thoại về vấn đề duy trì ổn định xã hội. Một sách trắng của Hội đồng Nhà nước
mới gợi ý rằng các chiến dịch đấu tranh chính trị trong ngành tư pháp gần đây
có thể đã bị suy giảm.
Nếu được thực hiện, những thay
đổi này có thể phản ánh một điểm giao thời trong công cuộc cải cách tư pháp
Trung Quốc. Chính quyền trung ương có thể đã nhận ra rằng nếu Trung Quốc phải
giải quyết các vấn đề gây bức xúc của họ, thì nước này sẽ cần đến các thể chế
quan trọng, nơi có thể kiểm soát quyền lực của quan chức một cách độc lập và
cung cấp các kênh từ dưới lên trên cho người công dân tham gia.
Trung Quốc ngày hôm nay có thể
đang đứng trước ranh giới của quá trình chuyển đổi phức tạp tương tự như sự
phát triển của Hàn Quốc và Đài Loan vào những năm 1970 và 1980. Trong cả hai
trường hợp Hàn Quốc và Đài Loan, các nhà cầm quyền độc đoán đều đã theo đuổi
cải cách chính trị dần dần, mở cửa các cơ quan chính phủ để cho phép gia tăng
áp lực công dân từ bên ngoài, rồi từ từ mà thành công chuyển sang hệ thống
chính phủ tự do hơn. Ngày nay, cả hai quốc gia này đều đứng vững trong hàng ngũ
những nền dân chủ đã phát triển trên thế giới.
Nhưng không chắc rằng Trung
Quốc sẽ hướng theo một đường lối có triển vọng như vậy. Giới tinh hoa cầm quyền
của ĐCSTQ có thể sẽ loại bỏ cải cách hơn là chọn nó. Nếu xảy ra như vậy, Trung
Quốc trong thế kỷ XXI có thể sẽ giống với nước Nga ở thế kỷ XIX hơn là với Hàn
Quốc và Đài Loan ở thế kỷ XX.
Giống như Trung Quốc ngày hôm nay,
vào cuối thế kỷ XIX, nước Nga Sa hoàng trải qua những thập kỷ tăng trưởng kinh
tế với tỷ lệ vượt qua nền kinh tế Mỹ và các quốc gia châu Âu, mặc dù vẫn duy
trì hệ thống chính trị quan liêu độc đoán, và bị các quan sát viên nước ngoài
cho rằng đã lỗi thời. Khi thế kỷ sắp kết thúc, khắp nơi suy đoán liệu nước Nga
có thể vượt qua các cường quốc phương Tây về sức mạnh kinh tế và quân sự hay
không.
Bản thân nước Nga cũng phải vật
lộn với những thay đổi nghiêm trọng ở trong nước. Nỗi sỉ nhục quân sự trước các
cường quốc phương Tây trong cuộc chiến tranh quốc tế đầu tiên của thời đại công
nghiệp (Chiến tranh bán đảo Krym/Crimean 1853 – 1856) đã bộc lộ sự thua kém của
Nga về công nghệ. Kết quả là, nhà nước đế quốc Nga khởi động các cải cách kinh
tế và xã hội sâu rộng. Chế độ nông nô bị bãi bỏ và người nông dân có nhiều
quyền hơn. Công nghiệp hóa cơ cấu lại cuộc sống của Nga, mang lại một làn sóng
di cư từ nông thôn vào các nhà máy thành thị. Các cuộc biểu tình của công nhân
về điều kiện làm việc và tiền công đã bắt đầu diễn ra thường xuyên hơn. Các
phương tiện truyền thông xã hội của thời kỳ đó – các ấn bản in định kỳ – cho
phép tầng lớp ưu tú có giáo dục nhanh chóng phổ biến những ý tưởng trên toàn
quốc, thường phải dùng ngôn ngữ ám chỉ hoặc mã hóa để tránh sự kiểm duyệt của
đế quốc.
Chính quyền Sa hoàng cũng đưa
ra các cải cách luật pháp sâu rộng. Họ nhập khẩu thể chế luật pháp nước ngoài
bao gồm các mô hình giáo dục về luật; giới luật sư chuyên nghiệp; tòa án và bồi
thẩm đoàn kiểu phương Tây; các luật dân sự, thương mại, và hình sự. Sự phấn
khích có thể cảm nhận được. “Các khẩu hiệu trong những năm 1860 là đúng quy
trình, thủ tục tố tụng công khai, tòa xét xử có bồi thẩm đoàn, và các thẩm phán
không thể bị thay đổi” (8). Các quan chức thậm chí còn thành lập các hội đồng
đại diện địa phương bao gồm quyền tự trị có giới hạn.
Công dân rất háo hức với những
kênh mới. Các nhà cải cách tìm cách sử dụng hội đồng địa phương để từng bước
đẩy chế độ đế quốc theo hướng tự do hơn. Các nhà hoạt động cấp tiến đã tận dụng
những tiến bộ mới mẻ về luật như thủ tục tố tụng công khai và thẩm phán độc lập
để biến nơi xét xử thành nơi kêu gọi cho thay đổi chính trị lớn hơn. Năm 1878,
một kẻ vô chính phủ trẻ tuổi tên là Vera Zasulich đã trở thành một hiện tượng
truyền thông ngay lập tức, sau khi bà ta bị bắt vì cố gắng ám sát một thống đốc
của đế chế, các thẩm phán của phiên tòa đã chống lại những nỗ lực can thiệp vào
vụ án của chính phủ; luật sư của bà ta đã cố gắng để biến các thủ tục tố tụng
công khai thành một bản cáo trạng về sự tàn bạo của cảnh sát; một bồi thẩm đoàn
gồm các công dân đầy thiện cảm đưa ra lời phán quyết “vô tội”; và những đám
đông biến thành các cuộc biểu tình công khai khi bà ta được thả.
Những sự phát triển đó gây ra
lo ngại nghiêm trọng trong giới tinh hoa chính trị. Giống như ở Trung Quốc ngày
nay, các thể chế của nhà nước pháp quyền bị hoài nghi bởi thái độ kiên quyết
chống lại cải cách chính trị cơ bản của chế độ độc tài – đặc biệt là sau khi
những người theo đuổi chủ nghĩa vô chính phủ ám sát nhà cải cách lúc đó là Sa
hoàng Alexander II vào năm 1881. Dưới quyền người kế vị, các nhà chức trách Nga
đã phát động việc đẩy lùi các chính sách tự do kéo dài trong hai thập kỷ. Họ
hạn chế xét xử công khai, giới hạn quyền của bồi thẩm đoàn, yêu cầu kiểm soát
các hiệp hội luật sư, loại bỏ xét xử các vụ án chính trị ra khỏi hệ thống tòa
án thông thường, và làm giảm đáng kể các quyền hạn của hội đồng địa phương.
Bắt đầu từ cuối những năm 1870,
chính quyền đế quốc cũng đã xây dựng được một nhà nước cảnh sát rộng khắp (người
ta có thể gọi đó là “duy trì ổn định xã hội với những đặc tính của Nga”). Họ
ngày càng thu hồi trách nhiệm duy trì luật pháp và trật tự ra khỏi sự kiểm soát
của thẩm phán và trao nó cho cảnh sát, và cho cả Okhrana (cơ quan mật vụ của
chế độ Sa hoàng). Những nhân viên này được phép mở rộng quyền hạn một cách đáng
kể, cho phép họ bắt giữ và đày ải bất cứ ai trong nước, thậm chí ngày cả những
người bị tình nghi là tội phạm chính trị.
Tất nhiên là các biện pháp này
không thành công trong việc loại trừ bất đồng chính kiến. Sự tồn tại của sở hữu
tư nhân có nghĩa là có những giới hạn đối với quyền lực của đế quốc. Những nhà
bảo trợ giàu có tiếp tục tạo việc làm cho các nhà trí thức cải cách, bất chấp
những nỗ lực của nhà nước nhằm cô lập họ. Các tác giả bất đồng chính kiến tiếp
tục tìm kiếm thị trường cho các tác phẩm của họ, bất kể các nỗ lực kiểm duyệt
của nhà nước.
Hệ quả cơ bản của hành động
phản cải cách của Sa hoàng vào cuối thể kỷ XIX là một xã hội bị cực đoan hóa.
Hành vi quay lưng chống lại luật pháp của đế quốc đã thuyết phục phe ôn hòa
rằng cải cách chế độ dần dần là không thể được. Những thập kỷ đàn áp mù quáng
của nhà nước đã hội tụ các phe phái ủng hộ chủ nghĩa hợp hiến tự do, phe khủng
bố vô chính phủ, phe chủ nghĩa dân tộc tôn giáo, phe xã hội chủ nghĩa cấp tiến,
và giới công dân bình thường bị tổn thương bởi các hành vi vi phạm quyền của
họ. Nó khiến cho tất cả các phe nhóm trên tiếp nhận những lập trường chính trị
cực đoan hơn.
Hơn nữa, khi sự cai trị của đế
quốc bước vào thời kỳ suy yếu, các chính sách cứng rắn đã giúp ngăn chặn sự
xuất hiện của bất kỳ tổ chức hay thể chế đối lập chính trị nào. Như Trung Quốc
hiện tại, đế quốc Nga không có phong trào dangwai Đài Loan (bên ngoài Đảng),
không có các đảng đối lập chính trị Hàn Quốc, không có Công đoàn Đoàn kết Ba
Lan. Đế quốc Nga nghiền nát bất kỳ nỗ lực nào của các tổ chức này. Điều này tạo
ra một vẻ ổn định chính trị bề ngoài. Nhưng nó cũng đảm bảo rằng không tồn tại
một lực lượng thống nhất nào để bước vào khoảng trống và thu gom quyền lực trên
đường phố khi nhà nước Sa hoàng rốt cuộc sụp đổ. Thay vào đó, chỉ còn lại một
nhóm hỗn loạn gồm những kẻ mạnh về quân sự, những đám đông hỗn tạp, nhóm trí
thức cực đoan, và những kẻ quyết tâm làm cách mạng bí mật – bị đẩy xuống xe lửa
tại nhà ga Phần Lan một cách đáng ngại – đã trở nên dày dạn sau những thập kỷ
bị đàn áp.
Tất nhiên, Trung Quốc còn chưa
đến mức đó. Mặc dù tình trạng bất ổn trong nước ngày càng gia tăng, tăng trưởng
kinh tế bị chậm lại, và căng thẳng gia tăng với các nước láng giềng, các nhà
lãnh đạo trung ương vẫn duy trì vững chắc các đòn bẩy quyền lực. Mặc dù các
quan chức gần đây quay lưng chống lại các cải cách luật pháp, hầu hết các nhà
hoạt động vẫn còn hy vọng (và đòi hỏi) cải cách dần dần của nhà nước Trung
Quốc. Họ không mong muốn một biến động cực đoan sẽ có thể phá hủy nhà nước. Họ
muốn một sự hạ cánh nhẹ nhàng hơn là khó khăn.
Nhưng những nguy cơ của một
cuộc hạ cánh khó khăn là có thật. Áp lực đang nổi lên. Cần có các kênh pháp lý
và chính trị công khai để hướng chúng theo sự thay đổi dần dần. Nếu Trung Quốc
không xây dựng những điều đó ngay bây giờ, nó sẽ không chỉ đơn giản là làm
chệch hướng quá trình chuyển đổi, mà còn lao thẳng vào một tai họa lớn.
-----------------
[*] Carl Minzner là Giáo sư
Luật tại Đại học Fordham. Một chuyên gia về pháp luật và quản lý nhà nước Trung
Quốc, Minzner đã viết nhiều về các chủ đề này trong cả tạp chí khoa học và báo
chí đại chúng. Các bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của ông đã xuất hiện
trên tờ New York Times, Los Angeles Times, và Christian Science Monitor.
Ông đã từng là Cố vấn cao cấp
của Ủy ban Đđiều hành Quốc hội về các vấn đề Trung Quốc. Ông cũng là một thành
viên của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại về các vấn đề quốc tế năm 2006-2007, đồng
thời là thành viên Ngành Giáo dục pháp lý liên kết Đại học Yale – Trung Quốc
tại Học viện Xibei về Chính trị và Luật pháp ở Tây An, Trung Quốc. Ông cũng làm
việc với tư cách cộng sự cấp cao tại McCutchen & Doyle (Palo Alto, CA), và
một thư ký luật cho ông Hon. Raymond Clevenger của Tòa án Phúc thẩm Liên bang.
Minzner có bằng cử nhân của Đại học Stanford, bằng M.I.A của Đại học Columbia
về vấn đề quốc tế và công cộng, và một bằng Luật của trường Luật Columbia. [*]
GHI CHÚ
1. Một số nội dung và ngôn từ được chuyển thể từ bài viết ”
Trung Quốc quay lưng với Luật” của Carl Minzner, American Journal of
Comparative Law 59 (Thu 2011): tr. 935–84.↩
2. Andrew J. Nathan, “Thay đổi Lính canh Trung Quốc: Khả năng phục hồi sự chuyên chế,” Journal of Democracy 14 (tháng 1 năm 2003):. 13-15 ↩
3. Keith J. Hand, “Hiểu hệ thống Trung Quốc để giải quyết xung đột pháp lý,” Columbia Journal of Asian Law (sắp xuất bản năm 2013). ↩
4. Keith J. Hand, “Sử dụng Luật cho mục đích chính đáng: Sự cố Sun Zhigang và Sự nổi lên các hình thức công dân hành động ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,” Columbia Journal of Transnational Law 45, no. 1 (2006): 127–31.↩.
5. Wei Lihua and Jiang Xu, “Sifa shenpan zhong de renmin qinghuai yu qunzhong luxian” [Tình cảm và đường lối đại chúng trong việc thử nghiệm tư pháp], trang Web tòa án Trung Quốc, truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2011, chỉ có tiếng Trung Quốc: www.chinacourt.org / html / article/201106/22/455318.shtml. ↩
6. Minzner, ” Trung Quốc quay lưng với Luật,” Minzner, 947. ↩
7. “Dui Hua ước tính 4.000 vụ hành quyết ở Trung Quốc, hoan nghênh đối thoại công khai”, trang Web của Dui Hua, ngày 12 Tháng 12 năm 2011, tại http://duihua.org/wp/?page_id=3874. ↩
8. Richard Pipes, Nước Nga dưới chế độ cũ (London: Weidenfeld và Nicolson, 1974), 295 ↩.
2. Andrew J. Nathan, “Thay đổi Lính canh Trung Quốc: Khả năng phục hồi sự chuyên chế,” Journal of Democracy 14 (tháng 1 năm 2003):. 13-15 ↩
3. Keith J. Hand, “Hiểu hệ thống Trung Quốc để giải quyết xung đột pháp lý,” Columbia Journal of Asian Law (sắp xuất bản năm 2013). ↩
4. Keith J. Hand, “Sử dụng Luật cho mục đích chính đáng: Sự cố Sun Zhigang và Sự nổi lên các hình thức công dân hành động ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,” Columbia Journal of Transnational Law 45, no. 1 (2006): 127–31.↩.
5. Wei Lihua and Jiang Xu, “Sifa shenpan zhong de renmin qinghuai yu qunzhong luxian” [Tình cảm và đường lối đại chúng trong việc thử nghiệm tư pháp], trang Web tòa án Trung Quốc, truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2011, chỉ có tiếng Trung Quốc: www.chinacourt.org / html / article/201106/22/455318.shtml. ↩
6. Minzner, ” Trung Quốc quay lưng với Luật,” Minzner, 947. ↩
7. “Dui Hua ước tính 4.000 vụ hành quyết ở Trung Quốc, hoan nghênh đối thoại công khai”, trang Web của Dui Hua, ngày 12 Tháng 12 năm 2011, tại http://duihua.org/wp/?page_id=3874. ↩
8. Richard Pipes, Nước Nga dưới chế độ cũ (London: Weidenfeld và Nicolson, 1974), 295 ↩.
Nguồn: CARL MINZNER, “China at the Tipping
Point?“, ChinaFile, ngày 11 Tháng Bảy 2013.
Bản Tiếng Việt © 2013 The
Pacific Chronicle
No comments:
Post a Comment