Rajaram
Panda
Viện Nghiên cứu Hòa bình và Xung đột (IPCS) - Ngày 09/08/2013
Bản
dịch của Vũ Quốc Ngữ (Defend the
Defenders)
Posted on August 10, 2013 by VNHRDs | Leave
a comment
Nhận lời mời của Tổng thống Barack Obama, Chủ tịch
nước Việt Nam Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong ngày 23-26 tháng Sáu. Mặc dù Chủ
tịch Sang được tháp tùng bởi đông đảo quan chức trong các lĩnh vực từ kinh tế,
thương mại đến quốc phòng và cả một số chức sắc tôn giáo cao cấp, chuyến thăm
mang ý nghĩa chiến lược hơn là về kinh tế hoặc chính trị. Kể từ khi bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước trong tháng 11 năm 1995, quan hệ song phương đã phát
triển tột bậc và đạt được một số thành tựu lớn trong sự thay đổi lớn của môi
trường địa chiến lược, định hình và định hướng lại các ưu tiên trong chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ và các nước ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Liệu chuyến thăm có thể hiện xu hướng mới trong quan
hệ Mỹ-ViệtNam? Và nó có ý nghĩa gì với chính sách chuyển trọng tâm của Mỹ tới
khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và cấu trúc an ninh đang lớn mạnh của khu vực
này? Nó có là yếu tố lớn có thể thúc đẩy sự tái định hướng các mối quan hệ giữa
các quốc gia và mục tiêu của nó là gì? Mặc dù một số người có thể đưa ra các dự
đoán về những động lực, thì cũng vẫn rất khó khăn để chứng minh nó là những yếu
tố quyết định mang lại sự thay đổi.
Những
lực lượng dẫn dắt
Chuyến thăm của Chủ tịch Sang tới Mỹ có ý nghĩa rất
lớn về mặt lịch sử và biểu tượng. Nó mới chỉ là chuyến viếng thăm Mỹ thứ 2 của
chủ tịch nước Việt Nam sau chiến tranh giữa hai nước. Chuyến thăm mang ý nghĩa
lớn về chính trị và chiến lược, là hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa hai người
đứng đầu Mỹ và Việt Nam trong giai đoạn quan trọng của nền ngoại giao ở Châu
Á-Thái Bình Dương. Sự đánh giá cao của Việt Nam về chiến lược của Mỹ cần được
nhìn nhận từ chiến lược tăng cường sự hiện diện của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái
Bình Dương và sự thay đổi của cấu trúc an ninh của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.
Trong kỷ nguyên hiện đại, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
không có “thập tự chinh ý thức hệ” như đã từng trong quá khứ. Ký ức về chiến
tranh Việt-Mỹ đã bị quên lãng từ lâu. Bằng những hành động hiếu chiến, Trung
Quốc đã và đang tạo ra những bất ổn địa chiến lược trong khu vực châu Á Thái
Bình Dương. Điều này làm cho quan hệ Việt-Mỹ có triển vọng tươi sáng với sự hội
tụ chiến lược và chính sách thực dụng đang nổi lên như động lực chủ yếu. Mặc dù
Việt Nam không nhận thức được hết tầm quan trọng về địa lý của họ trong chính
sách tăng sự hiện diện của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tầm quan trọng
chiến lược của nước này trong sự tính toán của Mỹ thay đổi tùy theo mối quan hệ
Trung-Mỹ.
Thời gian là cơ hội để Việt Nam và Mỹ nâng tầm quan
hệ lên mức đối tác chiến lược. Không thể phủ nhận rằng mối quan hệ Việt-Mỹ đang
ở giai đoạn quan trọng khi sự đe dọa của Trung Quốc tăng cao và nó sẽ định hình
chính sách tăng sự hiện diện của Mỹ ở châu Á. Trong chiến tranh lạnh, Mỹ đối
đầu với đe dọa của Liên-xô (cũ). Với sự bành trướng của Trung Quốc trong khu
vực, Mỹ cho rằng mình có đủ khả năng để đảm bảo an ninh cho các đồng minh của
mình trong khu vực Thái Bình Dương. Việt Nam có tiềm năng để đóng một vai trò
quan trọng trong chính sách tăng cường của Mỹ tới khu vực châu Á- Thái Bình
Dương.
Chuyến thăm của Chủ tịch sang tới Mỹ là cơ hội lịch
sử để hai bên nâng quan hệ lên mức đối tác chiến lược khi mà Việt Nam đã chuẩn
bị để gánh vác một vai trò quan trọng cùng với Mỹ trong việc cân bằng lại với
Trung Quốc. Mặt khác, Mỹ nhìn Việt nam như là một thành tố cực kỳ quan trọng
trong chính sách tăng sự hiện diện của chú Sam ở châu Á.
Vấn
đề nhân quyền và bán vũ khí
Tiếc thay, hai nước không thể thiết lập đối tác
chiến lược vì sự vi phạm nhân quyền của Việt Nam. Bằng việc đưa một số chức sắc
tôn giáo theo mình, Chủ tịch Sang muốn trấn an những nhà hoạt động nhân quyền ở
Mỹ. Bên cạnh các lợi ích chiến lược và kinh tế, nhân quyền và giá trị con người
là vấn đề quan trọng của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Trong quá khứ, Hoa Kỳ
đã ưu tiên lợi ích chiến lược và lợi ích kinh tế, ví dụ như đã quan hệ gần gũi
với Trung Cộng năm 1979, và các chính phủ sau này không bao giờ cảm thấy xấu hổ
khi chỉ trích thành tích nhân quyền nghèo nàn của chính phủ ở Bắc Kinh.
Đúng là quan hệ Trung-Mỹ đang tiến triển mạnh, lợi
ích chiến lược và kinh tế đang được ưu tiên hơn so với các vấn đề khác. Mỹ cũng
đã đồng ý thiết lập đối thoại chiến lược với Angola khi nước này được cho là
tham nhũng và mất tự do. Thậm chí, Mỹ còn thiết lập đối tác chiến lược với
Kazakhstan mặc dù tổ chức Ân xá Quốc tế báo cáo rằng tra tấn là hành vi thường
xảy ra ở nước này, và những kẻ tra tấn được đi lại tự do. Ucraina là đối tác
chiến lược với Mỹ mặc dù tổ chức Economist Intelligence Unit đánh giá nước này
có một nền dân chủ méo mó và tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency
International) xếp nước này vào nhóm tham nhũng nhất. Do dó, nhân quyền không
thực là vấn đề Mỹ quan tâm so với lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ vẫn gây sức ép
về vấn đề nhân quyền với Việt Nam, coi đó là điều kiện tiên quyết để nâng tầm
quan hệ.
Do thành tích nhân quyền yếu kém của Việt Nam, Mỹ
tiếp tục áp dụng cấm vận vũ khí sát thương mà Hà Nội mong muốn trong việc hiện
đại hóa quân đội. Tháng Sáu năm ngoái, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng
Quang Thanh nói với người đồng nhiệm Leon Panetta rằng việc bỏ cấm vận vũ khí
sát thương sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tướng Thanh lập luận rằng một
khi Mỹ bỏ cấm vận, trước hết Việt Nam sẽ mua một số vũ khí, khí tài của Mỹ để
sửa chữa cho số vũ khí mà Mỹ để lại trong chiến tranh. Để hiện đại hóa quân
đội, Việt Nam cần mua một số loại vũ khí phụ thuộc vào khả năng tài chính và
nhu cầu của quân đội, Thanh nói.
Lầu Năm góc coi Việt Nam là đối tác chính ở khu vực
châu Á-Thái Bình Dương. Quân cảng Cam Ranh, căn cứ hải quân chính của Mỹ trong
chiến tranh, có vị trí chiến lược mà Washington muốn tái sử dụng. Từ năm 2003,
20 tàu chiến Mỹ đã viếng thăm các cảng của Việt Nam, kể cả vịnh Cam Ranh, nơi
mà tàu vận tải Byrd đang đậu để sửa chữa. Chính phủ Việt Nam chào đón các tàu
chiến đến với mục đích thương mại.
Kể từ khi Mỹ tuyên bố chuyển trọng tâm tới khu vực
châu Á-Thái Bình Dương trong chiến lược quân sự, Oashington có chính sách phát
triển khả năng của các đối tác châu Á, kể cả Việt Nam. Năm 2011, Việt Nam và Mỹ
ký bản ghi nhớ về hợp tác trong những hoạt động không phải là quân sự, như tìm
kiếm, cứu hộ cứu nạn, an ninh hàng hải, cứu trợ nhân đạo và hoạt động gìn giữ
hòa bình. Cựu Bộ trưởng Panetta hứa là sẽ nâng quan hệ đôi bên nhưng với điều
kiện Việt Nam phải cải thiện nhân quyền.
Mặc dù Oashington thẳng thắn nói với Hà Nội rằng Mỹ
sẽ không bán vũ khí sát thương cho nhà nước cộng sản cho đến khi Việt Nam cải
thiện tình hình nhân quyền, Mỹ lại sử dụng cây gậy khác đối với các nước khác,
như các đồng minh ở Trung Đông. Trong thực tế, Mỹ chỉ ngừng bán vũ khí cho
Bahrain trong một thời gian ngắn sau Mùa xuân Ả rập, và dỡ bỏ lệnh cấm mặc dù
chính phủ của nước này tiếp tục đàn áp sắc dân Shia.
Vậy tại sao Mỹ lại áp dụng lệnh cấm với Việt Nam?
Điều có có thể giải thích bởi chính trị trong nước. các tổ chức dân sự ở Mỹ,
một số được lãnh đạo bởi người Mỹ gốc Việt, từ lâu sử dụng vấn đề vi phạm nhân
quyền của Hà Nội để chống lại việc nâng cấp quan hệ. Gần đây, các nhóm người
Việt ở Mỹ đã tận dụng việc bắt bớ gần đây của Hà Nội để gây sức ép với Obama về
việc mở rộng quan hệ.
Tuy nhiên, Oashington sẽ coi việc môi trường chiến
lược ở châu Á bị đe dọa là cái cớ để xem xét lại chính sách đối với Việt Nam.
Hơn thế nữa, với việc Trung Quốc ngày càng lấn lướt ở biển Đông, Mỹ không cho
phép chơi quân bài nhân quyền để trì hoãn việc xác định quan hệ với Việt Nam.
Không chóng thì chầy, Mỹ và Việt Nam sẽ nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược và
vấn đề nhân quyền sẽ được coi là vấn đề thứ yếu. Việc nâng cấp quan hệ sẽ nâng
cao lợi ích chiến lược của hai nước trong khu vực. Với tư cách là nước đứng đầu
bảo vệ nhân quyền, nước Mỹ phải áp dụng chính sách tham gia tích cực để có được
tuân thủ lớn hơn từ Việt Nam về nhân quyền.
Biển
Đông và yếu tố Trung Quốc
Những quan ngại về sự bành trướng của Trung Quốc ở
biển Đông đã đem Việt Nam và Mỹ xích lại gần nhau. Thương mại của Trung Quốc
với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và nhiều nước châu Á đang bùng
nổ. Mặc dù Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, thương mại
Việt-Mỹ tăng hơn 6 lần từ năm 2002 đến năm 2010, đạt 18.6 tỷ USD. Điều đó không
làm cho Trung Quốc thôi gây hấn với các đối tác kinh tế, điển hình là các tuyên
bố chồng lấn với các nước khác ở biển Đông, nơi được coi là chứa một trữ lượng
lớn tài nguyên thiên nhiên.
Các nhà phân tích nhận định rằng chuyến thăm Mỹ của
Chủ tịch Sang là chiến lược của Hà Nội để đối phó với sự bành trướng của Trung
Quốc ở biển Đông. Việt Nam có thể giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc và
mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác. Với tinh thần đó, Hiệp ước Đối
tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là con đường mà Việt Nam muốn đi theo. Trung
Quốc là yếu tố chi phối, làm cho quan hệ Việt-Mỹ gần gũi hơn.
Để bảo vệ quyền tự trị chiến lược của mình, Việt Nam
không chỉ tán tỉnh Mỹ, mà nhà nước cộng sản cũng tìm cách thuyết phục các nước
lớn khác ở châu Á như Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng trong sân khấu Đông Á.
Năm 2012, một cách bất ngờ, Thủ tướng Việt Nam tuyên bố mong muốn Ấn Độ đóng
vai trò quan trọng hơn trong việc giải quyết khủng hoảng biển Đông.
Liệu nước Mỹ có thể sử dụng cơ hội đó để làm cho
Việt Nam chuyển hóa thành một chế độ dân chủ, khi mâu thuẫn giữa Việt Nam và
Trung Quốc sẽ làm cho Hà Nội phụ thuộc vào Mỹ trong thương mại và kinh tế ?
Quan hệ Việt-Mỹ tiến triển sẽ là cơ hội vàng cho những thay đổi dân chủ ở Việt
Nam. Những tổ chức dân sự thấy Việt Nam dễ bị tổn thương bởi sự hung hăng của
Trung Quốc, và Việt Nam không thể chống lại. Việt Nam cần bạn bè để đối phó lại
với Trung Cộng. Và Việt Nam đã quyết định đi cùng Mỹ và các nước ASEAN trong
việc hình thành một mặt trận chung đối phó với Trung Quốc. Chuyến viếng thăm
của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tới Ấn Độ gần đây có thể coi là một
phần của chính sách ấy. Việt Nam và Ấn Độ đồng ý cùng nhau thắt chặt mắt xích
chiến lược cho hòa bình và thịnh vượng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Hòa
nhập với thế giới
Việt Nam đang tự chuyển mình, đóng một vai trò quan
trọng trong khu vực và thế giới. Hà Nội đã tuyên bố của quân đội tham dự lực
lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc từ năm 2014. Việt Nam cũng tham dự sâu
vào an ninh hàng hàng và cứu trợ nhân đạo. Về phần mình, Mỹ cũng tăng cường trợ
giúp Việt Nam về khả năng thích ứng, năng lượng sạch, phát triển bền vững đối
phó với biến đổi khí hậu. Sáng kiến Tiểu vùng Sông Mekong đã được bàn thảo ở
hội nghị cấp cao APEC gần đây tại Brunei.
Việt Nam đang tham gia vào các định chế quốc tế đa
phương, cùng với việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình trong tương lai gần.
Hà Nội muốn trở thành một thành viên có trách nhiệm của quốc tế, có đóng góp
tích cực cho hòa bình, ổn định và hợp tác trong Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình
Dương.
Trong bức tranh luôn thay đổi của khu vực và thế
giới, các nước lớn, kể cả Mỹ, có vai trò quan trọng và trách nhiệm lớn trong
việc giải quyết các điểm nóng trong khu vực, như biển Đông, và biển Đông Trung
Hoa và những vấn đề toàn cầu như an ninh năng lượng, an ninh lương thực, tội
phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu. Với tinh thần đó, Việt Nam hân hoan chào
đón việc mở rộng quan hệ với Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và chính sách
chuyển trọng tâm của Oashington ở khu vực này.
*
Nguồn: IPCS
No comments:
Post a Comment