Hồ Ngọc
Nhuận
28/08/2013
Trên
thế giới ai cũng biết: một nền dân chủ pháp trị đích thực, với một Nhà nước
pháp quyền đích thực, là một nền dân chủ đặt luật pháp lên trên hết, trên mọi
người và trên mọi quyền bính, tất nhiên và trước hết là trên người lãnh đạo cầm
quyền, vì phải làm gương. Trừ
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vì Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo ở đây
tự vẽ ra Hiến pháp, cầm điều 4 HP làm bùa chủ đạo, để ngồi xổm trên luật pháp.
Trong một nền dân chủ pháp trị ai cũng biết: “Điều
gì luật pháp không cấm thì người dân có quyền làm”.
Nhưng trước hết, người dân còn phải làm những điều
luật pháp kêu làm.
Như làm ăn thì luật pháp kêu phải đóng thuế. Làm trai
thì luật pháp kêu phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Làm người chiến sĩ trong quân
đội thì phải trung thành với Tổ quốc… Ở đâu cũng vậy.
Nhưng ở Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì có
khác. Ở đây đi lính, nhất là ở cấp chỉ huy, thì phải trung thành với Đảng lãnh
đạo. Còn luật pháp vẽ ra để đó chớ không hẳn để thi hành. Hay chỉ thi hành theo
các Ban Chỉ đạo của Đảng, có mặt ở mọi cấp mọi nơi, trước hết là ở ngành Tư
pháp, đặc biệt tập trung trong tay Ban Nội chính của Đảng, từ trung ương đến cơ
sở, để tập trung chỉ đạo không chỉ các bộ phận có liên quan như công an, giám
sát hay tòa án, mà cả từng vụ án lớn nhỏ. Với những bản án đã được định sẵn.
Như về báo chí, miệng thì nói tự do báo chí, luật
thì viết báo chí tự do, nhưng đốt đuốc cũng không tìm đâu ra một tờ báo tư
nhân, mà toàn là báo của các ban ngành đoàn thể của Đảng và Nhà nước, từ trung
ương đến các địa phương. Đứng đầu mỗi tờ báo, mỗi Ban Biên tập báo phải là một
đảng viên Cộng sản, có mấy trăm tờ báo là có mấy trăm đảng viên Tổng Biên tập,
có bao nhiêu Ban Biên tập là có bấy nhiêu đảng viên trưởng ban, dù là báo cho
trẻ con hay người lớn, dù là báo chí văn hóa văn nghệ, thể thao du lịch, làm
ruộng, làm ăn buôn bán, hay vui chơi giải trí… Chưa kể hàng trăm đảng viên lớn
nhỏ khác trong hàng ngũ các báo. Tất cả làm thành hội nhà báo, chia thành nhiều
phân hội nhà báo, đứng đầu là những ông bà đảng viên Cộng sản có vai vế nhất.
Còn báo nói và báo hình, đương nhiên cũng là thành viên của Hội Nhà báo, nhưng
là thành viên công cụ chuyên chính hàng đầu của Đảng.
Báo chí tự do ở đây là như vậy đó, có thêm mấy chữ
“xã hội chủ nghĩa” hay không cũng vậy.
Ở đây luật viết tự do lập hội, nhưng từ hội to hội
nhỏ, cả hội làm vườn, nuôi chim nuôi cá, hay hội người mù, người già, người
khuyết tật, hay hội đi chơi đi bộ… phần lớn cũng phải do một đảng viên Cộng sản
đứng đầu làm hội trưởng. Có ông đảng viên “cỡ bự”, đi đứng đã khó huống hồ chạy
bộ, nhưng cũng là hội trưởng hội điền kinh.
Ở đây, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, trên
mọi lãnh vực, là “nói một đường làm một nẻo”.
Ở đây Quốc hội, được nói, được viết là nơi đại biểu
cho quyền làm chủ của nhân dân, nhưng được Đảng Cộng sản chia nhau làm chủ rất
kỹ. Tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội phải là đảng viên. Có đảng viên được cơ
cấu chánh thức để được đắc cử, có đảng viên được cơ cấu để lót đường, không
chịu cũng phải chịu, không được chạy, không được la, bởi ai biểu làm đảng viên.
Các đảng viên lót đường này ngày càng cần, vì các ứng cử viên “tự ứng cử” ngày
càng thưa, sau khi bị nhiều áp lực phải tự rút. Phải có đảng viên ứng cử thuộc
loại lót đường vì phải có ít nhất hai ứng cử viên cho một ghế đại biểu, hay ba
ứng cử viên cho hai ghế đại biểu. Để “coi cho được”, mà vẫn có phiếu “tập
trung”. Không như “thuở ban đầu không cần e ấp ấy”, chỉ một ứng cử viên duy nhất
cho một ghế đại biểu, để có phiếu tuyệt đối tập trung, nhưng mà “coi không
được”. Số ứng cử viên “tự ứng cử”, tức không do Đảng Cộng sản đề cử, thường rất
ít ỏi, lại bắt phải qua hai nấc lựa chọn sơ khởi là ở tổ dân phố nơi mình ở, và
ở cơ quan nơi mình làm việc. Như vậy người dân hai nơi đó được biến thành cử
tri hạng nhất được quyền “tín nhiệm” hay “không tín nhiệm” trước đa số các cử
tri khác dựa vào mấy “tiêu chuẩn của người đại biểu Quốc hội” được ghi trong
luật bầu cử, như “phải trung thành với Tổ Quốc”, “phải tôn trọng luật pháp”,
hay “ phải sâu sát với cử tri”… Đó là những tiêu chuẩn phổ quát cơ bản mà mọi
công dân bình thường lương thiện đều đạt, trước khi có những bằng chứng cụ thể
ngược lại, chớ không riêng gì của các đại biểu Quốc hội. Còn tiêu chuẩn “sâu
sát với cử tri” thì người tự ứng cử đương nhiên phải đạt hơn ai hết, bởi có ai
sâu sát hơn khi nhà người ta đang ở đó, khi người ta đang làm việc ở đó? Những
điều luật mị dân hết chê nổi. Vậy mà số ứng cử viên “tự ứng cử” cứ rụng như
sung bị sâu. Trước hết là tự rút, vì không chịu nổi chuyện nhà chuyện cửa,
chuyện con chuyện cái, có khi là chuyện con chó của nhà mình bị người ta đưa ra
làm đề tài mổ xẻ… khi bị tổ chức đưa ra bình chọn ở tổ dân phố. Nếu không tự
rút thì cũng có người của Mặt trận đến vận động, áp lực để rút.
Nút chặn then chốt là Mặt trận mà luật bầu cử viết
hẳn là có quyền lựa chọn trước khi đưa ra cho cử tri bầu cử – một Mặt trận mà
một 100% thường trực lãnh đạo, từ cấp trên đến cấp dưới là đảng viên Cộng sản.
Kèm bên là một Đảng Đoàn Mặt Trận. Kèm trên là một Ban Dân vận Mặt trận. Rồi
Đảng ủy Khối, Đảng ủy cơ quan…cho tới Đảng ủy thành, Đảng ủy tỉnh, Đảng ủy
trung ương… Tất cả gộp lại làm thành một “thiên la địa võng” để chận bất cứ ai
không là người của Đảng, không do Đảng cắt cử, để Đảng tha hồ một mình một chợ
ở Quốc hội.
Cái Quốc hội
”một mình Đảng một chợ” đó được tổ chức như một “Đại hội các loại cán bộ, viên
chức của Đảng và Nhà nước”. Trong đó có nhiều hạng, trên
hết là hạng đại biểu là thành viên Bộ Chánh trị, hay ủy viên Trung ương Đảng,
chót hết là lưa thưa vài cụ thuộc vài tôn giáo lớn được cơ cấu vô Quốc hội để
làm đại biểu danh dự. Ngồi yên đó để vỗ yên đồng đạo và bá tánh.
Các thành viên của cái “Đại hội các loại cán bộ viên
chức của Đảng và Nhà nước”, được gọi là Quốc hội đó, tất nhiên là không phân
chia theo từng khối nhóm đại biểu cho các nhóm quyền lợi hay khuynh hướng chánh
trị ngoài xã hôi, mà được phân ra từng đoàn theo các tỉnh thành nơi họ cư trú,
ứng cử và đắc cử. Trưởng đoàn đại biểu, nếu không là người đứng đầu đảng hay
chánh quyền, thì cũng là một đảng viên có vai vế nhất nhì trong Đảng ở địa
phương, để phát ngôn, phát biểu thay đoàn hay chỉ định người phát biểu ở các
diễn đàn Quốc hội, hay khi tiếp xúc cử tri được tổ chức định kỳ một năm vài
lần. Không ai được phép xé rào, và trên thực tế chưa thấy ai dám xé rào…
Với một Quốc
hội như vậy, độc có tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội là đảng viên của một độc
đảng, tổ chức có hạng bậc trên dưới chặt chẽ, với kỷ luật thép của Đảng Cộng
sản, thì thảo luận ở Quốc hội là gì? Với kỷ luật thép
của Đảng, khi một chỉ thị nghị quyết của Đảng đã được ban ra thì mọi phê bình
đối với quyết định đó đều bị coi là phá hoại chệch hướng. Các quyết định của
Đảng thường là áp đặt từ trên xuống, đặc biệt từ một nhóm nhỏ gọi là Bộ Chánh
trị, có khi chỉ từ vài người có thế lực trong Bộ Chánh trị. Vì vậy đại bộ phận
các đảng viên có nói gì, bàn gì, cũng không hề ảnh hưởng gì đến quyết định của
lãnh đạo Đảng, mà lãnh đạo
Đảng cũng không hề biết, không cần biết tâm tư ý kiến của quần chúng đảng viên.
Càng không cần biết tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Một Quốc hội như vậy thường được gọi là một “hòm
thư”. Nhưng “hòm thư” ở đây bị rỗng, vì nguyện vọng nhân dân đã bị chận từ
ngoài cổng. Hoặc bị công an rượt đuổi từ ngoài đường, tận cổng các tòa án.
Trong
tình hình như vậy mà lãnh đạo Đảng, cũng là lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Chánh
phủ, ký kết với bất kỳ ai, cả với Bắc Kinh hay với quỷ, bất cứ thứ gì rồi đưa
ra cho các đại biểu Quốc hội thông qua thì có trời mà biết đó là cái gì…
Tôi là một
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1975 đến nay tổng cộng là 38
năm. Trong đó có 24 năm, từ 1975 đến 1999, là không có luật, và 14 năm, từ ngày
12 thang 6 năm 1999 đến nay, là có luật, gọi là “Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam”. Nên tôi xin nói một chút về Luật Mặt trận.
Mặc dầu có Luật Mặt trận hay không có Luật Mặt trận
thì cũng vậy thôi, cũng không ai thấy Mặt trận làm gì cho dân, ngoài việc cũng
có một guồng máy đồ sộ từ trung ương đến địa phương cơ sở, song song với guồng
máy đồ sộ của Nhà nước, song song với guồng máy đồ sộ của Đảng, cùng chia nhau
xài chung ngân sách nhà nước, tức từ tiền thuế của nhân dân, để cùng làm nhiều
việc của các hội đoàn xã hội từ thiện tư nhân, ngoài các việc do Đảng và Nhà
nước giao, như lập hồ sơ và sàng lọc các ứng cử viên vào Quốc hội hay các Hội
đồng. Và Ban Thường trực Trung ương Mặt trận thì định kỳ ngồi ký các văn kiện
gọi là “liên tịch” với Chánh phủ để định kỳ tổ chức mần liên tịch tiếp.
Còn về “nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của nhân dân” như được ghi ở Điều 2 của Luật Mặt trận
thì không ai thấy “mặt ông Mặt trận” ở đâu hết, khi nông dân nhiều nơi bị cướp
ruộng kêu cứu, khi công nhân nhiều nơi bị hà hiếp đình công “la làng”, khi
người dân kêu gọi biểu tình chống bọn bành trướng Bắc Kinh cướp đảo, rượt bắt
ngư dân nước ta, hay khi thanh niên sinh viên học sinh yêu nước đấu tranh bị
đàn áp.
Hay về “nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước” cũng được ghi hẳn
hòi ở Điều 2 của Luật Mặt trận, cũng không ai thấy tổ chức Mặt trận giám sát
được gì từ mấy chục năm nay.
Nếu đã giám sát được ai hay chút gì, trong 38 năm
qua, thì đâu đến nỗi ông Tổng Bí thư Đảng lãnh đạo cầm quyền phải “ngậm ngùi”,
hay ông Chủ tịch nước phải ngập ngừng không thể nói ra, trước những sai phạm to
đùng nào đó trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nứớc?
Tại sao Mặt Trận lại cứ ngó lơ trước
những nhiệm vụ của mình được ghi rành rành trong Luật Mặt trận?
Bởi khi khơi khơi nêu hết nhiệm vụ này đến nhiệm vụ
khác, mà không giao quyền, không giao phương tiện, thể hiện bằng luật pháp, để
thi hành nhiệm vụ, thì chỉ để chơi thôi. Cả khi nêu lên quyền này quyền khác mà
không có phương tiện luật pháp đi kèm để thực thi thì cũng như vô quyền. Như
những quyền tự do cơ bản của người dân được ghi trong Hiến pháp mà không pháp
chế hóa để bảo đảm thi hành thì coi như treo đó để phỉnh người dân mà thôi.
Không chỉ phỉnh mà còn ngăn chận, bao vây, đàn áp, như khi người dân sử dụng
quyền biểu tình hợp pháp bất bạo động để chống bành trướng Bắc Kinh.
Mặt trận còn làm ngơ một điều cơ bản nữa mà Luật Mặt
trận ngay từ điều 1 đã kêu làm.
Tức là “phát huy quyền làm chủ của nhân dân… để góp
phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Nhưng điều đặc biệt quan trọng nhất là người ta đã
nuốt dần lời hứa “Đánh thắng giặc ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, tốt
đẹp hơn”. Mà chỉ nghe thấy kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội, rồi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa… Cả hai thứ đều không hề thấy ở đâu, cả ở nơi mà cái nôi
xã hội chủ nghĩa cũng đã bị vất từ lâu, trừ vài nơi người dân vừa bị đeo gông
vừa hô khẩu hiệu “hoan hô lãnh tụ cha, lãnh tụ con, lãnh tụ cháu nội”.
Bởi không thể xây dựng tốt đẹp hơn, nếu không xây
dựng đàng hoàng hơn. Và xây dựng đất nước đàng hoàng hơn là xây dựng một nền
dân chủ đích thực, tức một hệ thống chánh trị tôn trọng sự công chính trong
cạnh tranh quyền lực, tôn trọng tiếng nói, dư luận, tôn trọng phán quyết tối
hậu của người dân bằng lá phiếu để có sự luân chuyển hay thay đổi quyền hành
trong hòa bình, tôn trọng sự khác biệt chính kiến, sự khác biệt của người khác,
có văn hóa tranh luận.
Bịt
miệng, chụp mũ, trù úm, đàn áp… là tiếp tục không đàng hoàng, là làm ngược, là
phản lại chính ông cha mình…Không thể có xây dựng đàng hoàng mà bóp chết tự do.
Khởi xướng, hay kêu gọi xây dựng dân chủ có đối lập,
trong một xã hội dân sự tôn trọng quyền con người, có tình người, chính là tiếp
nối lời kêu gọi xây dựng đất nước đàng hoàng hơn.
Đó không chỉ đơn thuần là một tổ chức chính đảng. Đó
trước tiên là tinh thần dấn thân nhập cuộc, mở ra một con đường cho dân tộc
thoát khỏi vòng xoáy của một hệ thống quyền lực luôn đe dọa mọi ý chí độc lập
bằng bạo lực, sớm muộn sẽ đưa đất nước xuống hố diệt vong. Đó là một phong trào
tập hợp mọi nỗ lực thiện chí muốn cống hiến cho đại cuộc, vì một nền dân chủ tự
do độc lập thật sự cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Từng sống qua mấy chế độ khác nhau của miền Nam,
từng biết qua ít nhiều vài chế độ dân chủ đây đó gần xa, tôi không hề có ảo
tưởng về một chế độ dân chủ tuyệt đối, một hệ thống chánh trị tuyệt hảo ở bất
cứ đâu.
Nhưng không thể không có tiếng la báo động trước sự
mất còn của đất nước. Một hệ thống ngày càng chồng chất những cái không lương
thiện, lại thêm lồng ghép với những nhóm xã hội đen tối, kể cả mafia, ở đâu đó,
là một vòng xoáy tàn khốc khó thoát đối với mọi người, mọi dân tộc.
Cái hệ thống của những điều không đàng
hoàng gần như toàn diện hiện nay, nếu không sớm được thay đổi bằng một hệ thống
dân chủ đích thực, sớm muộn sẽ đưa đất nước đến hố diệt vong, chắc chắn sẽ sớm
đưa đến mất nước vào tay bành trướng Trung Quốc. Cái đáng sợ nhất là nó đánh
mất linh hồn con người, linh hồn Việt Nam.
Đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, dân tộc
Việt Nam thân yêu của chúng ta đã chịu nhiều “cải biến” quá rồi, đã đổ nhiều
máu và nước mắt quá rồi. Và thế giới, trong đó có dân ta, đã kinh qua đủ thứ
cách mạng rồi. Nên không có cách nào khác, nếu muốn sống còn, là tổ chức hợp
tác bình đẳng giữa những con người tự do biết tôn trọng lẫn nhau./.
26-8-2013
H.
N. N.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN.
No comments:
Post a Comment