19-05-2013
Một người bạn vừa nhờ mình chuyển giúp vài dòng tâm sự
của anh ấy tới ông Trương Tấn Sang (Tư Sang), hiện là Chủ tịch Nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng như bạn, mình không thể trao tận tay ông Tư
Sang lá thư này, nên mình đưa nó lên blog, hy vọng ông Tư Sang có thể đọc thư
qua Internet.
Bạn mình là đồng môn của ông Tư Sang khi cả hai là sinh
viên lớp 5LHC, khóa 5LH, trường Đại học Tổng hợp TP.HCM, giai đoạn 1990 – 1995.
Đây là khóa đầu tiên của chương trình đào tạo thử nghiệm
Cử nhân Luật ở Đại học Tổng hợp TP.HCM. Chương trình đào tạo thử nghiệm này chỉ
thực hiện được ba khóa thì người ta ra lệnh dừng.
Để bạn đọc có thể hiểu thấu đáo tâm tình của bạn mình.
Mình xin tóm tắt vài nét về lai lịch chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân
Luật của trường Đại học Tổng hợp TP.HCM.
Trước 1990, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ đào
tạo Cử nhân Pháp lý tại trường Đại học Pháp lý. Mục tiêu đào tạo Cử nhân Pháp
lý là cung cấp cán bộ thực thi pháp luật cho hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa.
Cũng vì vậy, lý lịch (nguồn gốc xuất thân) là tiêu chí đầu tiên trong việc xét
tuyển sinh viên. Học lực, tư chất thuộc hang thứ yếu.
Không rõ là từ bao giờ và các diễn biến bên trong ra sao
nhưng đến năm 1990, trường Đại học Tổng hợp TP.HCM được phép tuyển sinh cho
chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật.
Chương trình này có vài điểm mới: (1) Người muốn học chỉ
cần hội đủ điều kiện (tốt nghiệp trung học trở lên) là có thể ghi tên nhập học,
không cần phải dự kỳ thi tuyển sinh đại học do Bộ Giáo dục Đào tạo tổ chức hàng
năm, cũng do vậy, người học còn được gọi là sinh viên “hệ ghi danh” (bên cạnh
các hệ đã có như: chính qui, chuyên tu, tại chức). (2) Chương trình đào tạo được xem là “bản sao” từ
chương trình đào tạo Cử nhân Luật của hệ thống Đại học Luật khoa ở miền Nam
trước tháng 4 năm 1975.
Nghe nói tác giả của chương trình đào tạo thử nghiệm Cử
nhân Luật ở trường Đại học Tổng hợp TP.HCM là ông Triệu Quốc Mạnh. Ông Mạnh
từng lấy Cử nhân Luật ở Đại học Luật khoa Sài Gòn. Từng học chương trình Tiến
sĩ tại đại học này. Từng là công tố viên cao cấp trong hệ thống tư pháp của
Việt Nam Cộng hòa và ông Mạnh còn là… “Việt cộng nằm vùng”. Tháng 4 năm 1975,
ông Mạnh từng được ông Dương Văn Minh – Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng
hòa, bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia. Đây củng là lý do khiến ông
Mạnh không được Đảng CSVN tin dùng sau khi Đảng đã “Giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước”.
Với lập luận đã “đổi mới” thì phải có một đội ngũ am hiểu
“luật pháp tư sản”, giúp Việt Nam dễ dàng “hội nhập”, ông Mạnh thuyết phục được
ông Nguyễn Ngọc Giao – lúc đó là Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp TP.HCM, đứng ra
vận động Bộ Giáo dục Đào tạo cho phép thực hiện chương trình đào tạo thử nghiệm
Cử nhân Luật.
Chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật khởi đầu vào
năm 1990. Vì là thử nghiệm, Đại học Tổng hợp TP.HCM chỉ thành lập Bộ môn Luật,
nằm trong Khoa Triết và tuyển sinh khóa đầu tiên, đặt tên là Khóa 5LH
(1990-1995). Khóa 5LH có ba lớp: 5LHA, 5LHB và 5LHC. Nghe nói, có tới 3.000
người ghi danh theo học khóa 5LH. Trong đó có chừng 1/3 đã tốt nghiệp hoặc đang
theo học một đại học khác. Người ghi danh theo học khóa này thuộc đủ mọi thành
phần: thường dân, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, tu sĩ Công giáo, tu sĩ Phật giáo,
mục sư Tin Lành, viên chức chính quyền, cán bộ đảng, thẩm phán, thư ký tòa án,
công tố viên, sỹ quan cảnh sát, sĩ quan an ninh, nhân viên hải quan,…
Bởi chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật ở trường
Đại học Tổng hợp TP.HCM là “bản sao” từ chương trình đào tạo Cử nhân Luật của
hệ thống Đại học Luật khoa ở miền Nam trước tháng 4 năm 1975, nên gần như toàn
bộ giảng viên của chương trình này là những vị đã từng làm giáo sư của các
trường Đại học Luật Khoa, Hành chính Quốc gia của Việt Nam Cộng hòa hoặc đã
từng theo học bậc Cao học (thạc sĩ) tại các trường này, hay đã từng du học ở
phương Tây. Vì thời thế thay đổi, có vị quay trở lại bục giảng sau 15 năm ngồi
sửa đồng hồ ở lề đường, có vị quay trở lại bục giảng sau hàng chục năm ngồi tù
vì bị nghi là nhân viên C.I.A (do từng sang Mỹ du học)…
Cũng bởi chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật ở
trường Đại học Tổng hợp TP.HCM là “bản sao” từ chương trình đào tạo Cử nhân
Luật của hệ thống Đại học Luật khoa ở miền Nam trước tháng 4 năm 1975, nên nó
khác hoàn toàn với chương trình đào tạo Cử nhân Pháp lý của trường Đại học Pháp
lý. Sinh viên được dạy gần như tất cả những gì mà các trường luật trên thế giới
đã và đang dạy sinh viên luật của họ (tất nhiên phải trừ ra các trường luật của
những quốc gia cộng sản). Cũng nhờ vậy, sinh viên theo học chương trình đào tạo
thử nghiệm Cử nhân Luật ở trường Đại học Tổng hợp TP.HCM được học nhiều thứ về
khoa học pháp lý liên quan tới lập pháp, hành pháp, tư pháp, hình sự, dân sự,
kinh tế, tài chính,… đúc kết từ tiến trình phát triển của nhân loại. Nhiều môn
học như: dân luật, kinh doanh, thương mại, hợp đồng,… được dạy trước khi Quốc
hội và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành những bộ luật đó.
Đây cũng là lý do mà Lê Công Định, tuy đã từng tốt nghiệp
Đại học Pháp lý, đang làm việc tại Phòng Công chứng TP.HCM, vẫn ghi danh theo
học chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật ở trường Đại học Tổng hợp
TP.HCM.
Vài người bạn của mình vốn là cựu sinh viên khóa 5LH kể
thêm rằng, để bảo đảm chất lượng đào tạo và để có cơ sơ xin chuyển chương trình
đào tạo Cử nhân Luật ở trường Đại học Tổng hợp TP.HCM từ thử nghiệm thành chính
thức, Bộ môn Luật của Khoa Triết phối hợp với Phòng Đào tạo của trường Đại học
Tổng hợp TP.HCM tổ chức thi cử hết sức khắt khe. Tuy chỉ là thi hết môn nhưng
các đợt thi vẫn được thực hiện y hệt các kỳ thi đại học. Sinh viên được chia
thành vài chục nhóm, mỗi nhóm chừng 20 người vào chung một phòng. Mỗi sinh viên
phải ngồi đúng bàn mà giám thị đã ghi mã số sinh viên của họ…
Dẫu gian lận trong thi cử là chuyện không thể loại trừ
nhưng không sinh viên nào được ưu ái để làm chuyện đó. Năm 1995, trong kỳ thi
tốt nghiệp của khóa 5LH, một vị, lúc đó đang là đại tá, Phó Giám đốc Công an TP.HCM
bị giám thị lập biên bản, đuổi khỏi phòng thi, cấm thi tốt nghiệp vì quay cóp.
Tổ chức dạy và thi kiểu này nên nghe nói, từ 3.000 sinh
viên ghi danh lúc đầu, sau 5 năm đào tạo, chỉ có chừng 500 sinh viên được nhận
bằng tốt nghiệp. Không ít người trong số rơi rụng dọc đường là viên chức chính
quyền, cán bộ đảng, thẩm phán, thư ký tòa án, công tố viên, sỹ quan cảnh sát,
sĩ quan an ninh, nhân viên hải quan,…
Đáng tiếc là chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật
ở trường Đại học Tổng hợp TP.HCM bị hủy khi vừa tổ chức tuyển sinh khóa thứ ba
(khóa 7LH). Môt phần vì sự phản đối của Đại học Pháp lý, một phần vì “nội bộ
lủng củng”. Khoảng năm 2004, trường Đại học Tổng hợp TP.HCM tách Bộ môn Luật ra
khỏi Khoa Triết để thành lập Khoa Luật. Khoa Luật của trường Đại học Tổng hợp
TP.HCM được bổ sung một Phó Tiến sĩ từng du học tại Liên Xô. Bà này tên là Mai
Hồng Qùy, con dâu một vị lãnh đạo Bộ Giáo dục Đào tạo. Vì là Phó Tiến sĩ từ
Liên Xô về, không tìm được chỗ trong chương trình đào tạo như chương trình đào
tạo thử nghiệm Cử nhân Luật ở trường Đại học Tổng hợp TP.HCM, bà Qùy bắt đầu
“cảnh báo” về những “nguy cơ” khi “hệ thống đào tạo xã hội chủ nghĩa”, dung
dưỡng chuyện đào tạo “tinh thần pháp luật tư sản”. Những “cảnh báo” này đi
thẳng lên Bộ Giáo dục Đào tạo và đi ra… báo Sài Gòn Giải phóng. Nó được hệ
thống báo Đảng lặp đi, lặp lại vài ba lần trong vài tháng.
Cuối cùng, Bộ Giáo dục Đào tạo quyết định rút Khoa Luật,
nhập vào Đại học Pháp lý TP.HCM, đổi tên Đại học Pháp lý TP.HCM thành Đại học
Luật TP.HCM. Nhờ có công phát hiện và “dũng cảm cảnh báo” các “nguy cơ”, bà Qùy
được bổ nhiệm làm Hiệu phó Đại học Luật TP.HCM. Cũng từ đó, các giảng viên của
Đại học Luật TP.HCM đổi đời, mỗi tháng có thể kiếm vài chục triệu, nhờ những
khóa “liên kết đào tạo cử nhân luật hệ tại chức” với các ngành, các địa phương…
Tới đây thì mình tin rằng, các bạn đã có đủ những thông
tin cơ bản để hiểu lá thư mà bạn mình gửi đồng môn Trương Tấn Sang. Cũng xin
nói thêm, những thông tin mà mình vừa kể chỉ là tóm tắt từ lời kể của vài cựu
sinh viên khóa 5LH, những thông tin đó có thể chưa đầy đủ, toàn diện nên rất
mong các vị là cựu sinh viên khóa 5LH bổ sung thêm. Nếu mình không lầm thì phần
lớn các vị đều thành đạt trong nghề luật…
***
Sài Gòn ngày 18 tháng 5 năm 2013
Anh Tư thân mến,
Tôi là một cựu sinh viên lớp 5LHC, khóa 5LH của Đại học
Tổng hợp TP.HCM.
Tôi suy nghĩ nhiều, đắn đo đã lâu và tới bữa nay thì
quyết định phải viết cho anh vài dòng.
Chúng ta đã cùng ngồi với nhau một lớp, trong suốt năm
năm. Tôi tin anh cũng như tôi và các bạn đồng môn, đồng khóa khác, vẫn cảm thấy
tự hào bởi chúng ta nhờ may mắn mà được dạy dỗ tử tế hơn một chút.
Tôi tin sự tự hào và kết quả giáo dục mà chúng ta thụ
hưởng vẫn còn nguyên vẹn trong anh, thành ra tôi quyết định chia sẻ với anh suy
nghĩ của tôi.
Anh Tư thân mến,
Tôi vốn là kẻ không ưa Cộng sản nhưng tôi vẫn dành cho
anh thiện cảm đặc biệt, bởi anh khác nhiều đảng viên, viên chức chính quyền
Cộng sản mà tôi đã biết.
Tôi vẫn còn nhớ đồng môn Trương Tấn Sang, dẫu là Chủ tịch
UBND TP.HCM, Phó Bi thư Thành ủy TP.HCM nhưng luôn đến trường bằng xe hai bánh
gắn máy. Một đồng môn trầm lặng, không vênh váo, gần như không bao giờ bỏ học,
trong lớp luôn nghe giảng, ghi chép hết sức nghiêm túc, thi cử ngay ngắn.
Tôi nhớ cả đồng môn Trương Tấn Sang thỉnh thoảng lại hỏi
xin thuốc lá để hút trong giờ giải lao, vì sợ sẵn thuốc lá trong túi thì khó
kiềm chế, bỏ dở giờ học ra ngoài hút thuốc như… tôi và nhiều anh em khác.
Tôi kính trọng đồng môn Trương Tấn Sang kiên nhẫn đeo
đuổi khóa học kéo dài suốt năm năm, chấp nhận các thử thách để hoàn thành
chương trình học vốn chẳng dễ dàng, nhẹ nhàng chút nào, dù rằng anh có thể chọn
đường tắt để nhặt một hoặc vài mảnh bằng, dùng như “vé” trong chuyện “luồn sâu,
leo cao”.
Tôi đánh giá anh rất cao khi là Chủ tịch UBND TP.HCM, Phó
Bi thư Thành ủy TP.HCM nhưng anh vẫn lắng nghe các vị thầy của chúng ta phân
tích, phê phán những nhược điểm, cảnh báo về các hệ quả của việc quản lý, điều
hành xã hội theo kiểu Cộng sản.
Tôi nghe nói, anh từng là học sinh Petrus Ký – một trong
những trường trung học danh gía nhất của miền Nam Việt Nam ngày xưa, nơi chỉ
dành cho những đứa trẻ thật sự hiếu học và học lực thật sự xuất sắc.
Với những gì đã nghe và đã chứng kiến, tôi tin anh trọng
sự học, yêu mến tri thức, tự trọng, biết giữ phẩm giá của mình. Song chừng đó
chỉ đủ với cá nhân Tư Sang, chưa tương xứng với ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Anh Tư thân mến,
Hẳn anh còn nhớ, nhiều vị là thầy của chúng ta đã cùng
nhắc, cùng khuyên chúng ta về chuyện phải sống, phải hành xử sao cho xứng đáng
là “con nhà Luật”.
Anh đã biết thế nào là “con nhà Luật” nhưng anh đã làm gì
để xiển dương tư cách “con nhà Luật” như mong mỏi của các thầy, như khao khát
và tâm niệm của chúng ta – những cựu sinh viên 5LH?
Một kẻ vừa là “con nhà Luật”, vừa là Chủ tịch Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như anh, có nên ngồi im khi hệ thống tư pháp
kết án những đứa trẻ như Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên? Đọc tới đây, có
thể anh muốn nhắc tôi xem lại “tam quyền phân lập”, thành ra tôi xin thưa luôn,
anh đang là Ủy viên Bộ Chính trị. Anh có thể làm được nhiều việc khi ở cương vị
đó!
Một kẻ vừa là “con nhà Luật”, vừa là Chủ tịch Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như anh, đã từng học đủ thứ về kinh tế vĩ
mô, kinh tế vi mô, hành chánh công quyền, tài chính công, dân luật, ngân hàng,
thương mại, hình luật tổng quát, hình luật riêng biệt,… sao anh lại chấp nhận
thực trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục như hiện nay?
Nếu tôi nhớ không lầm, khi phân ban, đa số đồng môn chọn
chuyên ngành kinh tế, tư pháp thì anh và một nhóm rất nhỏ các bạn khác chọn
chuyên ngành công pháp. Học công pháp mà không nói gì, không làm gì trước thực
trạng quản trị – điều hành hệ thống công quyền như hiện nay thì… kỳ quá anh Tư
à!
Anh Tư thân mến,
Một vài bạn đồng môn, rành rẽ chính trường Việt Nam bảo
tôi rằng, anh cô đơn lắm nhưng tôi thấy rất khó để đồng cảm với điều đó. Đến
giờ, ít nhất, khóa 5LH cũng có Lê Công Định công khai thực hiện khao khát và
tâm niệm của một “con nhà Luật”. Gần đây, tôi tình cờ được biết, ngoài Định còn
có một số bạn đồng môn khác, bằng cách này hay cách khác cũng đang cố gắng như
vậy. Còn anh, Trương Tấn Sang, cựu sinh viên khóa 5LH thì sao?
Anh Tư thân mến,
Nhờ xem ảnh ông Trần Văn Huỳnh, cha của Trần Huỳnh Duy
Thức trên Internet, tôi mới biết, ông chính là người đã dạy chúng ta “Thuật ngữ
pháp lý”. Tôi không hiểu vì sao, ông chưa bao giờ nhắc tới điều đó. Tôi hy vọng
không phải vì ông thất vọng về một thế hệ “con nhà luật” mà ông góp phần đào
tạo.
Anh Tư thân mến,
Chúng ta là đồng môn, thành thử tôi thấy không cần phải
đề nghị anh nên làm gì, làm như thế nào. Tôi tin anh đủ tri thức để nhận ra mọi
thứ. Vấn đề chỉ là anh có dũng cảm hay không.
Với tình đồng môn, hãy cho phép tôi nhắc anh rằng, quỹ
thời gian và cơ hội của anh không còn nhiều. Rằng, trước khi bắt đầu cuộc khởi
nghĩa Yên Bái vào năm 1930, cụ Nguyễn Thái Học – lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng
– bảo như thế này với các đồng chí của cụ: “Không thành công cũng thành nhân”.
Khởi nghĩa Yên Bái không thành công nhưng Nguyễn Thái Học và những liệt sĩ Yên
Bái đã trở thành một phần của lịch sử Việt Nam.
Làm gì đó thật sự có lợi cho xứ sở và tổ quốc của mình đi
anh Tư!
Một cựu sinh viên khóa 5LH – “con nhà luật”
No comments:
Post a Comment