03:16:pm
26/05/13
Bài
viết của ông Jonathan London trên blog của ông „Đừng giữ một giấc mơ đã chết, hãy tập trung vào hiện tại” mà sau
đó được BBC đăng lại đã gây nhiều tranh cãi mà hai bài viết „Con đường nào đi tới?” và „Tôi thấy giấc mơ vẫn còn đó” của ông
sau đó có vẻ chỉ làm chìm sóng gió một cách miễn cưỡng.
Tuy
ông Jonathan London nói về bài viết coi cờ vàng “đã chết” là “có một số thiếu
sót nghiêm trọng và nội dung bài viết đã gây buồn lòng và làm tổn thương nhiều
người” nhưng tôi lại cảm thấy băn khoăn nhiều hơn an ủi.
Có
hai vấn đề ông đưa ra. Một là ông xin lỗi và không muốn xúc phạm tình cảm của
những ai trân trọng cờ vàng. Hai là ông vẫn duy trì quan điểm nên dẹp chuyện
vẫy cờ sang một bên khi chưa lo xong chuyện thay đổi thể chế. Giữa hai vấn đề,
người đọc được bồi bổ thêm kiến thức về những suy nghĩ của ông với Việt Nam.
Thứ
nhất, việc phân giải bản chất của tác giả, xin lỗi và nhận lời xin lỗi hay
không là việc mà tôi xin miễn bình luận, coi đây như một trong các yếu tố có
thể xuất hiện trong lúc tranh luận và mỗi người trong công chúng có đặc quyền
tha thứ riêng. Nhưng những yếu tố còn lại làm tôi vô cùng e ngại mà theo tôi
không thể khép lại sau các bài viết của ông tiến sĩ.
Ướp sống?
Coi
chuyện vẫy cờ là „chướng ngại vật” trong môi trường đấu tranh dân chủ cho Việt
Nam dĩ nhiên đẩy cờ vàng ra rìa công cuộc chống đối cam go hiện nay đồng thời
làm những người muốn nhận lời xin lỗi từ ông như tôi đặt thêm dấu hỏi ông xin
lỗi điều gì và đang nhắn nhủ chúng tôi điều gì. Nói nôm na, ông bỗng dưng nhận
thấy giấc mơ cờ vàng „chưa chết” nhưng khuyên hãy ướp mạng sống của nó trong
lúc chờ thời cơ. Hỡi ơi!
Tôi
có những bất đồng tương tự khi đọc các suy nghĩ của ông trong bài „Có con đường nào đi tới?”.
Xin
lần lượt liệt kê.
Thời
Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, tướng Wojciech Jaruzelski từng phải bất ngờ ban lệnh
thiết quân luật, chỉ trong vòng 3 năm đẩy hơn 10 ngàn người hoạt động dân chủ
vào trại giam, chưa tính số nạn nhân bị thủ tiêu. Nhân mạng, tù đầy, uy hiếp….
Tất cả chỉ để ướp lạnh mọi giấc mơ. Cuối cùng thì giấc mơ thành hiện thực không
chỉ đối với Ba Lan trong khi có người mong nó bị chết cóng từ lâu mà tốt nhất
là đi vào quên lãng.
Nói
cho cùng, nếu cứ ướp lạnh „have a dream” của Nelson Mandela thì không rõ ngày
nay văn minh nhân loại nằm ở xó xỉnh nào đây.
Có
quá nhiều giấc mơ thực sự sống cùng dân tộc và con người thực với trái tim biết
khát khao luôn là ác mộng của độc tài. Bởi thế mà đã hơn 50 năm sau khi Đại Lai
Lạt Ma rời quê lánh nạn, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn phải chật vật đối phó với
những ước mơ của ông. Dĩ nhiên lá cờ truyền thống của Tây Tạng là biểu tượng bị
cấm đoán khe khắt nhất và Trung Quốc liệt kê vô vàn lý do để biện hộ cho việc
cấm đoán đó. Y như đảng cộng sản Việt Nam đang làm với cờ vàng.
Tạm thôi?
Tôi
không thấy trên thế giới có học giả nào khuyên Đạt Lai Lạt Ma rời bỏ ước mơ hay
giả bộ phủ nhận biểu tượng Tây Tạng để coi đó là sách lược đối với Trung Quốc
dẫu sự giành giật ở Tây Tạng đang ngày một tàn nhẫn mà hậu quả tới nay là các
vụ tự thiêu diễn ra gần như triền miên.
Hãy
nhìn sang Tây Tạng, Miến Điện, Ba Lan… để biết không thể vừa hòa mình vào
lô-gích của độc tài, vừa bài trừ tệ nạn do chính độc tài tạo ra.
Ở
Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi thà để đối phương trù dập mình, chứ không chấp
thuận chùn bước dù luôn có cơ hội „chủ động tạm thôi”.
Đi
ngược lại mong muốn của độc tài nghĩa là nắm bắt cơ hội duy nhất và con đường
duy nhất cho chúng ta xoay đổi thế cờ. Vì thế việc học giả Jonathan London lên
tiếng ủng hộ ý tưởng „tạm ngưng vẫy cờ” làm tôi vô cùng khó hiểu, nhất là khi
ông tiếp tục hứa hẹn ủng hộ nhân dân Việt Nam trên con đường dân chủ hóa đất
nước.
„Chúng ta”?
Ở
Việt Nam, từ nay tới khi tình thế ngã ngũ, muốn hay không, sẽ luôn có hai phe:
một phe ít nhiều thuộc đảng cộng sản và một phe của của xã hội ít nhiều tổn thương.
Qua bài viết của tiến sĩ Jonathan London tôi được biết trong hàng ngũ đảng có
„nhiều người thông minh tận tụy” và họ có những khát vọng „như tất cả chúng
ta”. Tôi thật sự phát hốt và cáo lỗi xin ông đừng cho tôi vào đám „chúng ta”
đó.
Tại
sao việc họ „bị trói trong các thể chế còn khiếm khuyết” là điều được dĩ nhiên
công nhận như một thực tế khách quan, như những bối rối trong lúc đợi chờ
Gov-ba-chốp hoặc Kim Dae Jung xuất hiện tại Việt Nam? Trong khi đó „chúng tôi”
phải tiếp tục chứng kiến bao phiên tòa phi lý, bao bản án phi nhân mà tác giả
là „thể chế khiếm khuyết” được mông má bởi những nhân vật „thông minh tận tụy”.
Tôi không thể tin và không thể chấp nhận lời nói ngọt ngào rằng nỗi uất giận và
khát khao của tôi và của những người trong đảng cộng sản „cũng như nhau”. Khát
vọng của những ông bố bà mẹ có con bị chế độ vùi dập, khát vọng của những người
muốn tìm sự thật cho những án mạng khuất tất trong đồn công an, khát vọng của
những thuyền nhân tìm tự do trên biển, khát vọng của dân oan bị cướp đoạt đất
sống và khát vọng của những người „điên tiết” bởi bài viết của ông không thể
đem so sánh bừa phứa với khát vọng của 3 triệu đảng viên phần lớn tồn tại được
nhờ các „khiếm khuyết” vì e rằng việc so sánh này khiến ông phải xin lỗi thêm
lần nữa.
Cờ lạ?
Tiến
sĩ Jonathan London cho rằng có thể dung hòa giữa việc tạm ngưng vẫy cờ vàng và
tạm ngưng bàn chuyện quốc kì trong hi vọng „một ngày nào đó Việt Nam sẽ có một
lá cờ mà tất cả mọi người cùng chấp nhận” trong khi ông tiếp tục khuyến khích
chúng tôi nhìn xem có những con đường nào đi tới.
Phải
bàn luôn chuyện quốc kì cho ra nhẽ, bởi tôi thấy có xu hướng trong những bài
viết và lời bình của ông J.London muốn người Việt tham vọng mang thêm một lá cờ
lạ nào đó vào Việt Nam. Lại thêm một ý kiến làm tôi phải phản đối.
Sẽ
là mị dân khi nói các dân tộc có thể đi vào tương lai mà không mang theo hành
trang quá khứ. Cũng không có lá cờ nào dĩ nhiên được một thể chế dân chủ nào đó
vẽ ra mà không màng tới các giá trị truyền thống vượt thời gian và phi đảng
phái.
Việt
Nam được thế giới biết tới như một dân tộc khác biệt tại Á Châu với màu vàng
tượng trưng cho giáo lý Phật Pháp tiểu thừa. Màu vàng cũng là màu của người chủ
quốc vương trên ngai vàng. Nếu có tìm thêm màu sắc của các cuộc khởi nghĩa như
Trần Hưng Đạo, bà Trưng bà Triệu… thì cũng rất khó tìm ra màu đỏ. Tìm sao vàng
càng bó tay. Trong trường hợp Việt Nam, màu đỏ thật sự đại diện cùng sự có mặt
của phong trào cộng sản nước Nga. Kể cả „bác” Hồ cũng không giấu điều đó khi
bắt chước Trung Quốc nhập nội cờ đỏ từ rất xa về Việt Nam.
Chỉ
có các giá trị và truyền thống mới là điểm dựa có sức đột phá tiếp sức cho mọi
thế hệ dân chủ Việt Nam, từ Hòa Thượng Thích Quảng Độ, linh mục Nguyễn Văn Lý,
tới các bạn trẻ mới vào tù gần đây. Khi độc tài tưởng đã hạ bệ được
„chúng ta” bằng bạo lực thì giá trị truyền thống là giá đỡ có thật và hiên
ngang nhất bảo vệ sự sống dân tộc dẫu có người vẫn chưa nhận ra điều đó.
Việc người Việt trưng cờ vàng không chỉ là việc nhắc nhở quá khứ hay nâng niu
cảm xúc mà đang thực hiện công cuộc xây dựng tương lai bằng cách duy trì giá
trị dân tộc thâu suốt. Nguyễn
Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha hiên ngang trước tòa bởi có được sự nâng đỡ vô
giá đó và trên hết thấu hiểu sức mạnh đó.
Dân chủ nhà nước
yêu dân chủ ngoài luồng?
Ông
Jonathan London nói vì có câu chuyện vẫy cờ mà môi trường dân chủ Việt Nam gặp
„chướng ngại vật” khi ông gộp những người „thuộc bộ máy nhà nước” và những
người „đối lập với nhà nước” vào cùng một khối. Tôi hoài nghi điều này bởi trên
thực tế, phe nhà nước chỉ nhập cuộc dân chủ khi tình thế đã ngã ngũ hoặc đã bị
dồn tới chân tường. Việc vẫy cờ màu gì trước và sau đó chỉ là một trong các cớ
câu giờ.
Còn
nếu xét việc vẫy cờ từ góc nhìn của những nhà hoạt động dân chủ „ngoài luồng”
thì nguồn cảm hứng không bao giờ mâu thuẫn với hành động bởi họ gánh mạo hiểm
quá cao. Các nhà hoạt động thấu hiểu điều gì là giá trị cần ưu tiên khi bị bài
trừ. Lá cờ, nếu đã là nguồn cảm hứng, thì sẽ không thể đồng thời là chướng ngại
vật trong công cuộc đeo đuổi mục đích. Nỗ lực của người Việt tị nạn trước kia
cho tới Nguyễn Phương Uyên ngày nay đã chứng minh sức mạnh phi thường của sự
liên kết đó.
Ngoài ra, các „chướng ngại vật”, nếu có, cũng không thành vấn đề
phải giấu nhẹm. Các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam theo tôi không muốn ngoảnh
mặt làm ngơ với các „chướng ngại vật” mà trước sau phải đối diện. Ngoài việc
quốc kì, chúng ta còn phải tranh luật dài dài để đòi công bằng cho các thân
nhân và chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, phải giải quyết được các oan ức đất đai,
phải biết thành tâm tưởng nhớ boat people bỏ mạng tìm tự do, phải đòi công bằng
cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong khi vẫn phải đối diện với Giáo
Hội Phật Giáo của nhà nước…
Hai chân mạo hiểm
ngã ba đường
Người
Việt hiện nay đang thực sự dành vai trò thách thức đối phương qua tự do tư duy
và tinh thần bất khuất. Những con đường nào cho Việt Nam ư? Bài học của
những cuộc các mạng đã thành công cho thấy con đường chính nghĩa chỉ có một,
nhưng ý kiến thì nhiều. Có ý kiến
cho rằng có thể đặt hai chân ở hai bờ chiến tuyến để giữ vai trò khó định nghĩa
như ông J.London với tờ Nhân Dân. Cũng có gợi ý khác về con đường kém vinh
quang, đầy mạo hiểm ở giữa khoảng không của hai cái chân đôi khi được gọi là
cây cầu hòa hợp… Không biết có tới được đích hay không nhưng chắc chắn chui qua háng chân là con đường luồn lách và cúi đầu.
Tôi
không cho rằng đội ngũ dân chủ Việt Nam có xu hướng tìm giải pháp trung dung
dẫu phía bên kia là đảng cộng sản đang nỗ lực vận động cho ý tưởng này.
Theo
dõi hướng đi của thế hệ trước như Hòa Thượng Thích Huyền Quang, tù nhân lương
tâm Trương Văn Sương, Nguyễn Hữu Cầu… và theo dõi động lực vận hành của cỗ xe
dân chủ thời nay thì có thể đi tới kết luận rằng người vạch đường thấu đáo nhất
là người đã gán số phận mình quyết cho cỗ xe chạy tới đích. Kẻ đứng giữa ngã ba
đường tất nhiên có thể khua khoắng chướng ngại vật với dụng ý tốt nhưng e đó là
hành vi vô bổ đầy mạo hiểm. Hơn nữa, khi đã thống nhất cỗ xe đang chạy là cơ
hội duy nhất kéo Việt Nam rời độc tài thì chúng ta đừng phân vân mà hãy chủ
động vịn tay tiếp sức. Về phía mình, tôi sẽ cố gắng dẫu tôi sinh sau 1975, từng
có nhiều năm học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa tại Hà Nội và nay đang hoạt
động xã hội tại Ba Lan.
25
tháng 5 năm 2013, Warszawa
©
Tôn Vân Anh
©
Đàn Chim Việt
Nguyễn Quang Duy says:
CỜ VÀNG CHỐNG CỘNG
QUÁ KHỨ HAY TƯƠNG LAI?
Nguyễn Quang Duy
Nguyễn Quang Duy
Ngày
16/5/2013, tòa án Long An khép án mười sáu năm tù và sáu năm quản chế,
hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha. Trước phiên tòa, hai bạn
trẻ với những lập luận vững chắc đã phản đối các tội bị khép: phổ biến cờ
vàng, chống đảng Cộng sản và thả truyền đơn chống Trung Quốc.
Khi
dư luận còn bàng hòang vì bản án và ngưỡng phục chí khí hai bạn trẻ, thì diễn
đàn BBC cho đăng bài ‘Đừng giữ một giấc mơ đã chết’ của Tiến sĩ Jonathan
London. Tác giả là một nhà kinh tế chính trị học, chuyên về Việt Nam và hiện đang
dạy ở Đại học Hong Kong.
Một
mặt tác giả đồng tình với dư luận công khai phản đối bản án. Mặt khác tác giả
lại biểu lộ bất đồng với hai người trẻ. Ông cho rằng cờ vàng là lá cờ của quá
khứ và việc sử dụng cờ vàng không phải là con đường hứa hẹn nhất cho một Việt
Nam mới.
Bài
viết vừa chủ quan, vừa thiếu thông tin nên lập luận đâm ra thiếu chặt chẽ. Bài
viết lại được phổ biến vào một thời điểm vô cùng tế nhị đảng Cộng sản vừa khép
án nặng nề hai bạn trẻ yêu nước. Chính vì thế bài viết đã nhận được rất nhiều
góp ý phản đối.
Sau
đó vài hôm, ngày 20-5-2013, trên diễn đàn BBC tác giả đã viết bài ‘Có những con
đường nào đi tới?’ nhằm phân bua cùng độc giả. Điều đáng tiếc tác giả vẫn tiếp
tục chủ quan và chưa nhận ra con đường Việt Nam đang tới.
Là
một người Hoa Kỳ, lớn lên trong nền giáo dục tự do và lại là một nhà khoa học,
một người như thế lẽ ra nên bắt đầu bằng câu hỏi: “Tại sao cờ vàng lại chỉ được
vinh danh tại một số quốc gia ở Mỹ châu, Úc châu và Âu châu?” Khi đặt được câu
hỏi như thế ông sẽ có ngay câu trả lời vì Việt Nam chưa có tự do.
Từ
đó ông sẽ hiểu thêm rằng người Việt tự do sống rải rác khắp nơi trên thế giới
có quá nhiều khác biệt, nhưng chỉ có một điểm chung. Điểm chung của họ chính là
lá cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của tự do. Vì thế họ luôn bảo vệ và sẵn sàng
vinh danh khi có điều kiện.
Còn
với ngừơi Việt trong nước không chỉ đã mất tự do, mà luật pháp Việt Nam cũng
chỉ là công cụ của đảng cầm quyền. Trong phiên tòa quan điểm Luật sư Hà Huy Sơn
về việc Nguyễn Phương Uyên phổ biến cờ vàng như sau: “Hiện nay chưa có một văn
bản pháp luật nào cấm vẽ, dán cờ vàng ba sọc đỏ tại nơi công cộng.” Quan điểm
này xác nhận tình trạng nhân quyền tại Việt Nam.
Ông
London còn cho biết ông cảm nhận sẽ có thay đổi chính trị xẩy ra trong vòng 5
năm tới. Nếu ông cảm nhận chỉ thay đổi một phần của thể chế chính trị, trong đó
có việc cải cách luật pháp thì ông nên cổ vũ cho cho quan điểm của Luật sư Hà
Huy Sơn. Ông cũng nên ủng hộ hành động dán và phổ biến cờ vàng của hai sinh
viên. Hay ít ra ông London không nên kêu gọi người khác gát chuyện cờ vàng vì
mỗi người đều có quyền tự do chọn con đường cho mình. Tìm hiểu và tôn trọng
chính kiến của người khác chính là nguyên tắc căn bản của tự do và dân chủ. Có
như thế mọi người mới có thể đi chung đường.
Nếu
ông London cổ vũ thay đổi thể chế chính trị, từ một thể chế cộng sản sang một
thể chế tự do thì dấu hiệu của một thể chế tự do chính là việc lá cờ vàng ba
sọc đỏ được tự do tung bay khắp ba miền đất nước.
Trong
thời đại truyền thông tòan cầu, lá cờ vàng càng ngày càng được nhiều người trẻ
biết đến. Họ tìm hiểu vì lịch sử lá cờ gắn liền cuộc đấu tranh chống Pháp giành
độc lập và thống nhất đất nước và vì là biểu tượng của tự do. Tuổi trẻ tìm hiểu
và công nhận cờ vàng vì yêu nước và yêu tự do.
Trên
thực tế, các phiên tòa chính trị đều được dựng lên cho có hình thức. Còn bản án
chính trị đều được “Đảng” quyết định từ bên trên, từ bên trong và từ trước.
Trong phiên tòa hai sinh viên nêu rõ quan điểm họ chống lại đảng Cộng sản. Ông
London và dư luận công khai biểu lộ không đồng ý với bản án. Như vậy ông London
và dư luận đang chống lại bản án. Chống lại quyết định bản án, không khác gì
chống lại đảng Cộng sản. Mọi người đều có quyền chống lại những quyết định sai
trái của những người cầm quyền. Đây là quyền tự do cơ bản của con người.
Trước
tòa hai sinh viên công khai tuyên bố chống lại đảng Cộng sản, là một hiện tượng
chứng tỏ sự trưởng thành của tuổi trẻ Việt Nam. Hai sinh viên chống lại đảng
Cộng sản vì tệ nạn tham nhũng của các quan chức cộng sản, và vì hành động xâm
phạm chủ quyền và tàn sát ngư dân Việt Nam của nhà cầm quyền Trung Quốc ngày
càng gia tăng. Vì yêu nước họ chống lại đảng Cộng sản.
Bản
án đảng Cộng sản khép cho hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha
chính là một bản án chống lại những quan điểm chính trị của thời đại. Kinh tế
tự do phải song hành với chính trị tự do, là một tiến sĩ dạy kinh tế chính trị,
ông London chắc đã rõ điều này.
Bởi
thế kết án hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha chứng tỏ đảng
Cộng sản đang đi ngược lại nguyện vọng của giới trẻ, đang đi ngược lại nguyện
vọng của dân tộc Việt Nam, đang đi ngược lại xu hướng tự do và dân chủ của nhân
lọai.
Trong
bài viết “Có những con đường nào đi tới?”, sau một hồi phân bua tác giả London
nhận xét: “Rõ ràng, ngày 16/5 là một bước thụt lùi khá xa cho Việt Nam.” Nhận
xét như thế là đồng nghĩa giữa đảng Cộng sản và đất nước Việt Nam. Một đồng
nghĩa lại được chính hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha bằng
hành động giải thích cho mọi người sự khác biệt.
Trên
các diễn đàn, đại đa số các bài viết và ý kiến đều đồng tình và thuận lợi cho
hai bạn trẻ. Ngày 16-5-2013 như thế phải nhận xét là một bước tiến mới của
những người đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam. Mặc dù xuất phát từ nhiều
khuynh hướng khác nhau họ đồng tình phản đối bản án khép cho hai sinh viên yếu
nước. Điều này cho thấy thời điểm hội tụ của mọi khuynh hướng muốn thay đổi
chính trị đã và đang bắt đầu.
Ngày
16-5-2013, phải nói là một bước thụt lùi khá xa của đảng Cộng sản Việt Nam. Nó
chỉ thấy đảng Cộng sản đang chống lại đòi hỏi phải thay đổi chính trị.
Tại
sao đảng Cộng sản phải chống lại thay đổi chính trị? Vì đảng Cộng sản cho rằng
thay đổi là tự sát. Nhưng việc đảng Cộng sản đang chống lại chiều tiến hóa của
dân tộc, của nhân lọai, rồi cuối cùng cũng như các thể chế độc tài khác, đảng
Cộng sản sẽ bị đào thải.
Sau
Hội Nghị 4, ngày 29/12/2011 trên báo Quân Đội Nhân Dân, ông Lê Khả Phiêu cho
biết tình trạng của đảng Cộng sản bấy lâu nay là “tồn tại trong suy thoái”.
Tình trạng tồn tại trong suy thoái chính trị lại càng ngày càng bộc lộ và cho
thấy không còn cách cứu chữa.
Ngược
lại đòi hỏi tự do dân chủ, đòi hỏi tôn trọng nhân quyền càng ngày càng bộc lộ
nhất là trong giới trẻ. Tuổi trẻ là tương lai. Đảng Cộng sản đang đi vào quá
khứ. Tự do là tương lai. Cộng sản là quá khứ.
Bất
chấp các hình phạt nặng nề, ngày 30-4-2013 Tuổi Trẻ Yêu Nước Long An lại cho
dán cờ vàng và cho phổ biến rộng rãi trên Facebook, trên các diễn đàn trong và
ngòai nước. Các bạn Tuổi Trẻ Yêu Nước đã nhìn nhận cờ vàng là dấu hiệu của một
thể chế tự do.
Chỉ
dưới một thể chế thực sự tự do, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại được tự do tung bay
khắp ba miền đất nước. Cờ vàng lá cờ của tương lai, lá cờ của Việt Nam tự do.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
23/5/2013
Melbourne, Úc Đại Lợi
23/5/2013
Trúc Bạch says:
Cám
ơn bài viết của Tôn Vân Anh !
Tại Sao Phải Cố Thủ
Mầu Cờ Vàng ?
Qua
bài viết phản biện lại lập luận của Jonathan London này của Tôn Vân Anh, tôi
xin phép ĐCV được nhắc lại những ý kiến mà tôi đã đăng trên trang ABS trong hai
bài (1) : “Tôi Thấy Giấc Mơ Vẫn Còn Đó” của Jonathan London viết để phản bác
lại bài viết bị xuyên tạc bởi Lê Võ Hoài Ân (báo Nhân Dân) và bài (2) : “Cờ Đỏ,
Cờ Vàng và Hòa Giải” Của nhà báo Huy Đức .
Jonathan
London viết :
“Qua những trao đổi,
thăm dò, tôi hiểu được giấc mơ của đại đa số người dân vẫn quý lá cờ vàng,
không phải là để hướng về một thời đã xa, mà chính là hướng tới một tương lai
tốt hơn bây giờ. Một tương lai mà dân tộc Việt Nam không bị coi là trẻ con như
không có đầu óc, không bị đàn áp vì ý tưởng của họ, và không bị ngăn chặn tham gia
đời sống chính trị trong cơ quan công quyền, bằng chế độ pháp quyền thực sự.”
-
Ông Jonnathan London đúng ở điểm này ! Chúng tôi trân trong lá cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ cũng không phải để khóc thương cho một miền Nam ngập ngụa máu và nước mắt mà
những người CSVN – với sự giúp đỡ tận tình và hào sảng của Quốc Tế CS – đã
(phóng tay) tiến hành một cuộc giải phóng bằng “bạo lực cách mạng”, khốc liệt
trong xuốt 20 năm ,….
-
Chúng tôi dương cao Cờ Vàng cũng không phải để hoài niệm về một phần đất nước
bị qua phân,…nhưng chình là để hướng về một tương lai, cái ngày mà dân tộc Việt
vĩnh viễn không còn bị coi là một Phiên Quốc của Trung Hoa, không còn bị coi là
cùng chung màu cờ, cùng chung lý
tưởng hay cùng “chung một Biển Đông” như lời bài hát “Việt Nam Trung Hoa” của
Đỗ Nhuận.
-
Với quyết tâm thoát khỏi ảnh hưởng của Đại Hán, tiền nhân Việt đã nghĩ ra chữ
Nôm – còn gọi là Quốc âm hay Quốc Ngữ – vì tin rằng độc lập về ngôn ngữ thì sẽ
độc lập về dân tộc.
Nhưng
dù sao thì Chữ Nôm cũng vẫn còn bị ảnh hưởng bởi cấu trúc từ chữ Hán, cho nên –
khi vị Cố Đạo Bá Đa Lộc nghĩ ra cách viết tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh – vừa
đơn giản, vừa dễ học, vừa dễ viết – nhưng
quan trọng hơn, là nó đạt yêu cầu hoàn toàn tách biệt hẳn với Hán Tự của người
Trung Hoa
Do
đó mà thứ “chữ Việt mới” này đã nhanh chóng trở thành :
“Quốc
Ngữ chữ nước Ta
Con cái nhà đều phải học !”
Con cái nhà đều phải học !”
Dân
tộc Lạc Việt may mắn khi có được chữ viết hoàn toàn khác với chữ Hán, trong khi
những dân tộc khác trong Bách Việt, vì dùng chung chữ Hán nên đã bị Hán Hóa một
cách triệt để – dù tiếng nói của các dân tộc này – cho đến nay – vẫn khắc với
tiếng nói của người Hán.
Cùng
với ý nghĩa trên, người Việt Quốc Gia tin rằng – việc cố giữ mầu Cờ
Vàng là hành động thiết thực nhất để nước Việt không bị đồng hóa bởi màu cờ Đỏ
của Trung Công…;
Do đó mà, cho dù ở
thế yếu – không có chính quyền và mang danh “vô tổ quốc” – nhưng người Quốc Gia
vẫn phải “cố thủ” lá cờ Màu Vàng như cố thủ một tiền đồn cuối cùng của dân tộc (*)
Có
thể suy nghĩ trên của người Quốc Gia là đơn thuần, nhưng hoàn toàn thuần khiết,
bởi vì không có gì thuần khiết hơn là ý chí bảo vệ tổ quốc thoát khỏi nạn Hán
Hóa đang càng ngày càng đến gần .
Mong
rằng việc người Việt ngày nay cố thủ màu Cờ Vàng cho “tách bạch” hẳn với màu Cờ
Đỏ của Trung cộng, cũng như tiền nhân của họ “cố thủ” chữ Nôm cho “tách bạch”,
cho khác hằn với thứ chữ Hán của người Tầu … , chung cuộc cũng sẽ gặp kỳ ngộ
như dân tộc Việt có được “kỳ ngộ” với chữ Quốc Ngữ hoàn toàn khác hẳn với Hán
Tự của người Tầu ngày nay .
(*)
Cả hai thời đệ Nhất và đệ nhị Công Hòa, đều thẳng thừng từ chối lời đề nghị lập
quan hệ bình thường với Trung Cộng…ngay cả trong những ngày cuối cùng của VNCH,
chính quyền đang hấp hối của T.T.Trần Văn Hương – cũng cương quyết bác bỏ lời
để nghị “giúp đỡ” của Trung Cộng để chống lại CSVN .
No comments:
Post a Comment