10:20:am
01/05/13
A – Lời mở đầu
Bài
viết này không có chủ ý biện hộ hay kết án cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về sự
kiện “bức công hàm 14/09/1958 liên quan đến HS-TS”, và cũng không muốn bàn tán
thêm về chủ đề chủ quyền VN trên hai quần đảo này vì đã có quá nhiều luật gia
và học giả khắp nơi ra sức tranh luận từ hơn 5 năm qua trong các trang mạng
Internet.
Bài
viết xin phép được trình bày một cách nhìn khác trung thực và sâu xa hơn về vấn
đề Biển Đông nói riêng và lịch sử cận đại VN nói chung, trong đó Đảng Cộng Sản
Việt Nam nam giữ một vai trò chủ chốt vô cùng quan trọng.
B- Dẫn chứng lịch sử
VN xung quanh bức công hàm PVĐ 1958
Những
dẫn chứng lịch sử xung quanh sự kiện HS-TS không có nhiều, thật ra chỉ có hai
văn kiện chính thức mà mọi người có thể truy tìm trên Google một cách dễ dàng,
tôi xin phép được trích dẫn ra đây hai bản văn kiện tối quan trọng, đó là:
1)- Văn kiện 1: Bức công hàm do cố
thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958 lên tiếng ủng hộ tuyên bố của
chính phủ Trung Quốc liên quan đến giới hạn và khu vực hải phận của TQ. Văn
kiện này chính ông PVĐ đích thân ký tên, mang quốc huy, quốc hiệu VCDCCH, con
dấu chính phủ, và do chính tay cố ngoại trưởng VN Ưng Văn Khiêm trao tay cho người
đồng nhiệm phía TQ. Sau đó công hàm PVĐ được nhật báo Nhân Dân chụp ảnh, in ấn
nguyên bản và đăng công khai để người dân miền Bắc biết. Tuy nhiên không hề
thấy báo Nhân Dân chụp ảnh và đăng “bản tuyên bố chủ quyền đất đai và vùng hải
phận của TQ” mà công hàm PVĐ đã ghi nhận.
2)- Văn kiện 2: Bản tuyên bố chủ
quyền quần đảo của TQ, giới hạn hải phận 12 hải lý (khoảng 22km) bao bọc bờ
biển của đất liền (TQ), hải phận rộng 12 hải lý bao quanh các quần đảo trong
vùng Biển Đông (trong đó TQ xác định HS-TS là thuộc chủ quyền của họ). Đi xa
hơn nữa TQ còn xác định rõ ràng vùng hải phận xác định bởi những đường thẳng
căn bản nối từ đất liền TQ đến các hòn đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS của
VN). Bản tuyên bố này không mang quốc huy, quốc hiệu TQ, không mang chữ ký
người gửi, không con dấu, không để tên người nhận và cũng không biết cơ quan
truyền thông nào chịu trách nhiệm phát hành.
_____________________________
Tuyên Bố của Chính
Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược
thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4
tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc nay tuyên bố:
(1)
Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ
này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao
gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan
(tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận,
quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần
đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2)
Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo
ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất
liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường
căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể
cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên
trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan,
đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là
các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3)
Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy
bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và
vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong
hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4)
Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo
Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa,
và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài
Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp
pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương
lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản
dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú
thích:
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
_____________________________
Tôi
đã kiên nhẫn theo dõi suốt 6 năm qua, từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên của
người dân SaiGon tháng 11/2007 đòi hỏi chủ quyền HS-TS cho VN, đến nay rất nhiều
học giả TSGS, luật gia VN hay ngoại quốc, tri thức Việt kiều hải ngoại thay
phiên nhau tranh luận, chủ yếu chỉ dựa trên “bức công hàm PVĐ 1958″ để biện hộ
cho ông và ra sức tranh cãi pháp lý quốc tế để giành lại chủ quyền VN trên hai
quần đảo này. Tôi chưa thấy ai đề cập gì đến “bản tuyên bố chủ quyền và hải
phận của TQ 04/09/1958″ và cũng không cung cấp gì thêm dẫn chứng lịch sử nào
khác ngoài hai văn kiện đó. Do đó tôi có thể đặt giả thuyết rằng “bản tuyên bố
TQ 04/09/1958″ có thật, tuy rằng hình thức không rõ ràng, nhưng nội dung yêu
cầu thì rất ư chi tiết. Nếu chỉ bàn luận trên “bức công hàm PVĐ 1958″ mà không
nhắc gì đến “bản tuyên bố TQ 1958″ thì theo tôi, quả là một thiếu sót rất lớn
hoặc có thể là một mánh khoé đánh lạc hướng công luận nhằm che giấu một sự thật
hệ trọng. Đó là lý do khiến tôi phải đọc đi đọc lại hai văn bản này hàng chục
lần, hy vọng tìm ra manh mối dẫn dắt đến tình thế phức tạp của VN hiện nay
trong vùng Biển Đông.
Sau đây là những
phân tích của tôi, dựa trên nội dung và hình thức của hai bản văn kiện ngoại
giao quan trọng đó.
1)- Sai lầm nghiêm
trọng
Bức
công hàm PVĐ 1958 đã để lộ ra nhiều sơ hở chết người, quan sát kỹ chúng ta sẽ
thấy:
a)- Sơ hở về thời
gian:
Từ khi nhận được “bản tuyên bố chủ quyền và hải phận TQ ngày 04/09/1958″ cho
đến khi PVĐ đặt bút ký “bức công hàm ngày 14/09/1958″ chỉ vỏn vẹn có mười ngày
(10) ngắn ngủi, để quyết định một sự kiện lịch sử tối hệ trọng liên quan đến
chủ quyền quốc gia, đến vận mệnh dân tộc VN. Nên nhớ rằng thời kỳ đó miền Bắc
VN và TQ kết thân nhau như anh em, cùng chung ý thức hệ CS, cùng chung giới
tuyến chống đế quốc Mỹ, thế thì tại sao chính quyền Hà Nội chỉ được có 10 ngày
để bàn bạc thảo luận? Phải chăng TQ đã ra một đòn cân não, áp lực chính trị
nặng nề đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh cầm đầu không còn
biện pháp nào khác hơn ngoài sự ngoan ngoãn cúi đầu tuân lệnh ? Phải chăng tình
hình chính trị kinh tế xã hội bết bát của miền Bắc thời đó quá tồi tệ, lòng dân
ly tán sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tàn sát hàng trăm ngàn người dân vô
tội, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt trí thức, sau khi hàng triệu nguời di
cư vào Nam đi tìm tự do, chính sách Hợp Tác Xã bị phá sản hoàn toàn, miền Bắc
VN túng quẫn, nạn đói đe doạ trầm trọng ép buộc chính quyền Hà Nội và ĐCS VN
phải cúi đầu tuân lệnh ĐCS TQ để tiếp nhận viện trợ thực phẩm và nhu yếu phẩm ?
Thời gian trả lời chỉ có 10 ngày vỏn vẹn, không khác gì một kiểu “tối hậu thư”
thúc ép Hà Nội phải trả lời nhanh cấp tốc. Buồn thay cho vận mệnh dân tộc VN!
b)- Sơ hở về hình
thức:
Tại sao chính phủ VNDCCH phải sử dụng đến hình thức ngoại giao công khai chính
thức rất ư nghiêm túc chỉ để trả lời một “bản tuyên bố vu vơ, một lá thư nặc
danh không tên tuổi” đáng vứt vào sọt rác ? Phải chăng đây là một mánh khoé
chính trị, một cạm bẫy do ĐCS TQ giăng ra để ép buộc Hà Nội rơi vào vòng kiềm
toả của họ ? Tôi nghĩ thầm đến hai giả thuyết, như sau:
-
một là lãnh đạo TQ không muốn bị bẽ mặt nếu chẳng may chính quyền CS Hà Nội tỏ
vẻ cứng đầu phản đối, hoặc cù cưa không trả lời;
-
hai là lãnh đạo TQ sử dụng đòn ngầm cưỡng ép miền Bắc phải trả lời công khai
chính thức bằng văn bản ngoại giao, để sau này họ nắm trong tay đầy đủ chứng từ
trưng ra trước công luận thế giới. Giả thuyết này ngày nay đã thành hiện thực,
bản thân thế hệ trẻ sau này đành phải đưa đầu chịu báng, ngư dân VN tiếp tục bị
tàu TQ xua đuổi, bị phá phách, bị cướp bóc ngay trong vùng hải phận VN.
c)- Sơ hở về nội
dung:
Bức công hàm PVĐ 1958 không đề cập gì đến “yêu cầu chủ quyền của TQ trên hai
quần đảo HS-TS”. Đúng thế, đọc kỹ công hàm vắn tắt chúng ta không thể tìm ra
được câu chữ nào dính líu đến “chủ quyền TQ trên HS-TS”. Tôi thầm nghĩ ông Hồ
và toàn thể BCT thời đó hãy còn trẻ, uy tín lẫy lừng ở miền Bắc sau chiến thắng
Điện Biên Phủ 1954, họ không dại dột gì lấy trách nhiệm với dân tộc về vấn đề
chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên họ đã bị rơi vào cạm bẫy TQ khi công khai chấp
nhận chủ quyền TQ trong vùng hải phận 12 hải lý (22km). Sơ hở này nghiêm trọng
hơn vấn đề HS-TS vì lẽ bức công hàm mặc nhiên cho phép TQ độc quyền tung hoành trong
Biển Đông bao la:
- một: Công hàm cho phép
TQ được quyền bao vây các hòn đảo thuộc chủ quyền VNCH (HS-TS, miền Nam). TQ
được quyền sử dụng mọi phương tiện quân sự để đánh phá những tàu bè VN đi vào
các vùng hải phận này. Ai cũng biết rằng HS-TS có rất nhiều đảo nhỏ không lớn
hơn 1km vuông, rất thấp, không có nguồn lợi kinh tế gì cả. Tuy nhiên hải phận
12 hải lý (22km) bao bọc mỗi đảo nhỏ chính là một vùng đặc sản kinh tế rộng lớn
(hơn 1500 km vuông/mỗi đảo), chứa hải sản, hay mỏ dầu hoả chất lượng tốt. Đó
chính là lý do tại sao hàng chục ngàn ngư thuyền TQ đang tranh nhau khai thác
vùng biển trời cho này. Ngược lại ngư dân VN thì lại bị đánh đuổi, thậm chí
muốn vào tránh bão cũng không được.
- hai: Công hàm PVĐ 1958
đã mặc nhiên công nhận một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) ấn định bởi
những đường thẳng căn bản nối liền từ bờ biển TQ đến tận các hải đảo ngoài khơi
(trong đó có HS-TS). Mỗi đường thẳng căn bản này được TQ đòi hỏi có một hành
lang rộng 12 hải lý (22km). Trân trọng mời quý vị độc giả quan sát bản đồ Biển
Đông (đính kèm) để hiểu rõ thêm vùng hải phận bao la ấn định bởi những đường
thẳng nối liền từ bờ biển TQ tới hàng chục đảo nhỏ của Trường Sa, nơi xa nhất
(khoảng 1700km, chiều rộng ngắn nhất 400km, theo tỷ lệ của bản đồ). Chấp nhận vùng
hải phận này do TQ yêu cầu, chính là chấp nhận thế bị bao vây, mọi con đường
hàng hải từ VN đến Nhật Bản, Phi, Đài Loan hay Đại Hàn về hướng Đông đều bị
ngăn cản. Đó chính là hàng rào chiến lược vĩ đại mà TQ hiện nay đang cố gắng
nâng cấp lực lượng hải quân hùng hậu đứng thứ 2 thế giới, nhằm bao vây Việt
Nam. Trong tương lai VN không còn đất đứng, đành phải chịu thân phận “một vùng
tự trị giống như Tây Tạng”.
- ba: Đừng thắc mắc tại
sao TQ ngang nhiên đem tàu chiến xâm phạm HS-TS đánh chìm tàu hải quân VNCH
(miền Nam) năm 1974, đừng trách cứ Hoa Kỳ tại sao bỏ rơi miền Nam, vì nhân dân
Mỹ đã quá chán ngán với chiến cuộc VN, mà hãy trách cứ tại sao ĐCS VN đã cúi
đầu công nhận chủ quyền TQ trong một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2)
rộng hơn gấp hai lần lãnh thổ VN. Tình thế khó khăn của dân tộc VN hiện nay
trong Biển Đông chính là hệ luỵ từ bức công hàm PVĐ 1958. Công pháp quốc tế có
ba đầu sáu tay cũng không thể nào cãi lại với chính quyền TQ khi họ chìa “bức
công hàm PVĐ 1958″ ra làm bằng chứng.
c)- Sơ hở về chiến
lược:
Lý do gì ĐCS VN không cho phép nhật báo Nhân Dân trích dẫn “bản tuyên bố TQ
04/09/1958″ mà công hàm PVĐ đã nhắc đến ? Đây là một thiếu sót vô cùng hệ
trọng. Ngày nay có ai dám đứng ra cãi rằng “bản tuyên bố TQ” tìm thấy trên
Google là giả tạo ? Có ai dám lục hồ sơ chính phủ VNDCCH năm 1958 để đem “bản
tuyên bố TQ thật” ra đối chất ? Bức công hàm PVĐ 1958 đã hiện rõ bộ mặt thật của lãnh đạo ĐCS VN: đó là
bản chất lừa dối, giấu diếm sự thật, lập lờ đánh lận con đen để lừa phỉnh quần
chúng. Hành vi mập mờ này chứng tỏ toàn thể Bộ Chính Trị ĐCS VN bị dồn
vào thế thụ động phải tuân thủ mệnh lệnh Bắc Kinh, nhưng để trốn tránh trách
nhiệm họ đã nhắm mắt ngậm miệng để cho cố thủ tướng PVĐ đứng ra chịu tội, sau
này búa rìu công luận sẽ nhắm vào cá nhân ông PVĐ mà quên đi rằng toàn thể lãnh
đạo ĐCS VN chính là thủ phạm. Những ai từng sống dưới chế độ vô sản chuyên
chính hiểu rõ nguyên tắc bất di bất dịch “Đảng lãnh đạo / Nhà Nước quản lý /
Nhân Dân làm chủ”. Do đó trách cứ đổ lỗi cho ông PVĐ là sai hoàn toàn. Tôi chỉ
buồn là vào thời kỳ đó, toàn bộ lãnh đạo ĐCS VN hãy còn sung sức và uy tín rất
cao, và đại tướng Võ Nguyên Giáp đâu rồi, sao không thấy lên tiếng về quyết
định trọng đại này ? Lòng yêu nước của những người lãnh đạo VN đã bị chủ nghĩa
giáo điều CS bào mòn, trở nên khiếp nhược trước áp lực của quân xâm lược Bắc
Kinh.
C- Kết luận:
Thật
không dễ chút nào cho một kiều bào hải ngoại như tôi muốn tìm hiểu lịch sử cận
đại VN, khi mà có quá nhiều giấu diếm, tuyên truyền dối trá nhằm che đậy sự
thật do ĐCS VN cố tình gieo rắc gây hoang mang nghi kỵ. Nói theo lời anh Nguyễn
Ngọc Giao (báo Diễn Đàn) rằng “ba thế hệ
dân tộc VN đã bị ĐCS VN cho ăn cháo lú suốt hơn 60 năm ròng”, sách giáo
khoa đã bị bóp méo nhằm mục đích đào tạo một thế hệ “nô dịch” phục vụ cho mưu
đồ Hán hoá, làm hao mòn tinh thần yêu nước bất khuất của nòi giống Lạc Việt mà
tiền nhân đã đổ biết bao xương máu để kiến tạo nên một đất nước oai hùng chống
xâm lược không mỏi mệt.
Không thể nào nói chuyện “hoà hợp hoà giải dân tộc” khi mà chủ
nghĩa giáo điều CS là kim chỉ nam cho mọi hành động, khi mà tất cả mọi danh từ
nhằm vu khống cho cả triệu người dân miền Nam vô tội vẫn tiếp tục được sử dụng
trên báo chí truyền thông “lề phải”, nào là: nguỵ quân, nguỵ quyền, nào là
chi’nh phủ bù nhìn, nào là phản động, nào là phản quốc, Việt gian. Đến bây giờ
nếu ai công tâm ngồi suy nghĩ kỹ và phân tích lịch sử nhân loại sẽ thấy ngay
“kẻ phản quốc, phản động, bù nhìn, tay sai ngoại bang, nguỵ quyền” chính xác là
tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ nào gieo Nhân thì phải hái Quả, kẻ
nào gây Nghiệp ác thì phải lãnh nhận quả Báo, giáo pháp Nhà Phật không sai chút
nào.
Bài
viết này mới chỉ nhằm phân tích tìm kiếm sự thật nằm sau “bức công hàm PVVD
1958″. Những hệ luỵ do bức công hàm PVĐ 1958 gây ra cho dân tộc VN suốt nửa thế
kỷ dẫn dắt đến cuộc chiến tranh tương tàn sẽ được phân tích ở bài viết sau. Một
vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân
tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị
em, gia đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào
được xem như là “một chiến thắng vinh quang”, ngược lại đó chính là một dấu
tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc.
Rất
mong nhận được những phản hồi góp ý của quý vị độc giả bốn phương, trong và
ngoài nước nhằm làm sáng tỏ vấn đề Biển Đông cho tương lai dân tộc Việt Nam.
Thành
thật cám ơn,
30/04/2013
©
Lê Quốc Trinh
©
Đàn Chim Việt
-------------------------------------
Về Công Hàm do Phạm Văn Ðồng
ký ngày 14/9/1958
Trương Nhân
Tuấn
Gửi cho BBCVietnamese.com
Cập nhật: 13:06 GMT - thứ hai, 1 tháng 10, 2012
Duy Tân Joële Nguyễn
Gửi cho BBC Việt
ngữ từ Pháp
Cập nhật:
12:56 GMT - thứ sáu, 14 tháng 9, 2012
Wednesday, September 14, 2011
.
Tuesday, September 13, 2011
..
03:39:am 09/09/11
.
04:31:pm 31/07/11
.
12:00:am 01/08/11
.
01:27:pm 03/07/11
.
Đỗ Thành Công - 04:54:pm 19/07/11
.
BBC - Cập nhật: 09:14 GMT - thứ tư, 20 tháng 7,
2011
.
.
Lê Văn Cường, Kỹ sư xây dựng - 19/07/2011
.
Ðã đến lúc nói
thật về Công Hàm Phạm Văn Đồng
Lê Phan - Thứ Hai
- 11 Tháng 7, 2011
.
Vũ Quí Hạo Nhiên - June 28, 2011
.
Vũ Quí Hạo Nhiên - June 25, 2011
.
.
Vũ Quí Hạo Nhiên - July 14, 2011
.
Duy Ái – VOA - Thứ
Sáu, 08 tháng 7 2011
.
Trương Nhân Tuấn - Đăng ngày: 11:39 24-06-2011
.
Trương Nhân Tuấn - Đăng ngày: 15:30 26-06-2011
.
.
Vũ Thị Phương Anh - Chủ nhật, ngày 26 tháng sáu năm 2011
.
China runs gauntlet in South
China Seas
Lê Quốc Tuấn. X-cafeVN chuyển ngữ - Thu, 06/23/2011 - 21:55
Đinh Kim Phúc - 16/06/2011
No comments:
Post a Comment