Phạm Thị Hoài
Tháng 5 20, 2013
Trong tập 4, bộ Hồ
Chí Minh Toàn tập, có một văn bản ngắn như sau :
Lời kêu gọi đồng bào Bắc Bộ
Hỡi đồng bào Bắc Bộ!
Việc bất hợp tác sáng hôm qua chẳng những không do mệnh
lệnh Chính phủ mà trái với chính sách Chính phủ. Việc đó tỏ rằng một số quốc
dân chưa hiểu kỷ luật. Biết theo những mệnh lệnh Chính phủ, làm cho thế giới
thấy rằng dân tộc ta xứng đáng độc lập, Chính phủ ta có đủ oai quyền. Vậy tôi,
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, hạ lệnh cho nhân dân Bắc Bộ lập tức
đình chỉ việc bất hợp tác, giữ thái độ bình tĩnh giúp Chính phủ giữ gìn trật
tự.
Đồng bào yêu mến tôi, nghe lời tôi.
Người đọc không được biết gì về bối cảnh của lời kêu gọi
đó, ngoài xuất xứ rằng nó được in trong cuốn Lời Hồ Chủ tịch của Nxb
Tiến Hóa, Hà Nội, năm 1946, trang 45. Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp
tác với ai và như thế nào [1]? “Sáng hôm qua” là sáng ngày nào trong những ngày đầy ắp sự
kiện phức tạp của hai năm 1945-1946[2]? Hi vọng sẽ có nhà nghiên cứu lấp được lỗ hổng thông tin đó.
Phần mình, tôi chú ý đến văn bản lạ này vì chỉ qua vài dòng, chân dung ông Hồ
được bổ sung thêm một số nét, khiến việc đọc phía sau mặt chữ trở nên thú vị.
Phía sau mặt chữ, chứ không phải giữa hai hàng chữ. Thông điệp ở đây là rõ
ràng, không có gì hàm hồ, bóng gió.
Một người như thế
nào thì có thể cho phép mình phát ngôn: “Tôi hạ lệnh cho nhân dân”? Trong mọi
ngôn ngữ, câu này đều tất yếu gây ra ấn tượng về một nhà độc tài. Các nhà lãnh đạo quốc gia ở những thể chế phi độc tài không buột miệng ra
một câu như vậy ngay cả khi ngủ mơ, ngay cả trong những khoảnh khắc họ không
muốn gì hơn là được làm chính xác như thế. Nhưng ngay cả một Putin, một Lý
Quang Diệu, một Hugo Chávez cũng không phát ngôn như vậy. Còn Hồ Chí Minh?
Cho đến trước đó chỉ có kinh nghiệm hoạt động cách mạng
và tham gia lãnh đạo một số phong trào, tổ chức, đảng phái bí mật, ông Hồ dường
như xa lạ với tất cả những gì làm nên một chính khách chuyên nghiệp. Ông cũng
không chuẩn bị cho mình và các đồng chí của ông một cơ sở lí luận và tư tưởng
cho việc cầm quyền trong một nhà nước hoàn toàn mới, sinh ra từ việc chôn vùi
nhà nước cũ [3]. Những năm tháng đầu tiên đứng đầu một nước Việt Nam mới, tác
phong và ngôn ngữ của ông là của một bậc cha chú cai quản gia đình hay của một
giáo chủ, một trưởng thượng, hơn là của một nguyên thủ quốc gia. Tuyệt đối tin
vào uy tín của mình với quốc dân, toàn bộ uy lực khi hạ lệnh cho nhân dân
của ông xuất phát từ lập luận: đồng bào yêu mến tôi thì nghe
lời tôi. Các học trò của ông sau này, không người nào có thể tự tin vào
uy tín của mình để hồn nhiên buông ra một lời như vậy. Tất nhiên vâng lời lãnh
tụ theo tiếng gọi của tình cảm là một trong những cách cai trị ưa thích của các
nhà độc tài và không hiếm khi kĩ năng mị dân của họ thăng hoa thành nghệ thuật
tự lừa mị [4]. Nhân dân Bắc Triều Tiên chắc chắn cũng được giáo dục để có
tình yêu trói buộc như thế với ba đời lãnh tụ họ Kim, và nhân dân Cuba với hai
đời lãnh tụ họ Castro. Song ở trường hợp đang đề cập, tôi không khỏi có cảm
giác rằng phát ngôn của ông Hồ, với tất cả tính gia trưởng của nó, có một sự
ngây thơ và chân thành phù hợp với giai đoạn mà cuộc cách mạng của những người
cộng sản Việt Nam còn ấu trĩ, ít nhiều trong trắng, chưa quay ra ăn thịt những
đứa con của mình và nhe nanh vuốt với mọi đảng phái chính trị khác từng một
thời đồng hành. Nhiều lần tôi đã cảm động khi đọc một số bức thư, lời kêu gọi
của Hồ Chủ tịch ở giai đoạn này và trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Ở đó tôi thấy một chính khách bất đắc dĩ, tầm vóc tư tưởng không có gì
kiệt xuất, nhận thức về thế giới tương đối sơ sài, kinh nghiệm điều hành quốc
gia ít ỏi, nhưng đầy lãng mạn và còn đậm tính cách riêng tư.
Với thời gian, những nét riêng tư ít nhiều chân thực của
Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho một hình ảnh nhân tạo ngày càng hoàn hảo. Sự hấp
dẫn của cá nhân con người Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho sự sùng bái biểu tượng
Hồ Chí Minh. Ông không còn hạ lệnh cho nhân dân nữa, dù đồng bào không thôi
yêu mến ông và vẫn sẵn sàng nghe lời ông. Song nhà nước mà ông liên tục đứng đầu gần một phần tư thế kỉ cho đến
khi qua đời đã trở thành một chính thể độc tài hoàn thiện. Ngôn ngữ cá nhân ít
nhiều xác thực của lời kêu gọi nêu trên, bất chấp nội dung của nó, sẽ dần
nhường chỗ cho một ngôn ngữ tuyên truyền công cộng thô thiển và giáo điều, cơ
sở của toàn bộ ngôn ngữ tuyên giáo kinh hoàng mà hiện nay chúng ta còn phải
chịu đựng. Càng đọc Hồ Chí Minh sau này, tôi càng thấy là các nhà tuyên giáo
của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến giờ phút này không làm một việc gì khác
ngoài lặp lại chính xác không những cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, mà còn
áp dụng trung thành cả những cách diễn đạt, những lập luận và những thuật ngữ
chính trị mà ông là cha đẻ.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lắp ghép từ rất nhiều mảnh to
nhỏ, lỗ đen và khoảng trống. Trong bức tranh chiết trung lạ lùng này, mảng mầu
của hai năm 1945-1946 có lẽ là tươi thắm hơn cả.
© 2013 pro&contra
[1] Trong bản đăng lúc đầu, ở đoạn này tôi
viết: “Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với chính quyền mới như thế
nào? Vì lí do gì?”. Có ý kiến độc giả lưu ý rằng trong bối cảnh lịch sử khi đó,
ông Hồ muốn nói đến sự bất hợp tác với Pháp. Tôi ghi nhận góp ý xác đáng đó, và
xin phép sửa lại thành: “Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với ai và
như thế nào?”. Xin cảm ơn độc giả.
[2] Chính phủ Lâm thời chỉ tồn tại đến hết năm 1945 và từ ngày
01-01-1946 được thay thế bằng Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Như vậy, có thể lời
kêu gọi này liên quan đến một sự kiện diễn ra ngay trong năm 1945 nhưng năm
1946 mới được đưa vào sách.
[3] Trước Cách mạng tháng Mười, khi lưu vong và sống trong một túp
lều ở Phần Lan, Lenin đã viết tác phẩm kinh điển về nhà nước chuyên chính vô
sản Nhà nước và cách mạng. Không ai yêu cầu ở Hồ Chí Minh một tầm vóc
tương tự, nhưng trước tác chính luận chủ đạo của ông, nếu ông cũng chính là
Nguyễn Ái Quốc, trước tháng Tám 1945, gồm: Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường cách mệnh (1925-1927) tập hợp bài giảng về kiến thức chính
trị phổ thông ở các lớp huấn luyện chính trị Quảng Châu và Chiến thuật du
kích (1942-1944), cho thấy một sự nghèo nàn đáng chú ý ở một nhà cách mạng
có ảnh hưởng quyết định đến số phận của một dân tộc cho đến tận bây giờ.
[4] Trong phiên
họp ngày 13-11-1989 của Quốc hội Cộng hòa Dân chủ Đức, phiên họp đầu tiên
sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, khi bị chất vấn trách nhiệm, ông Erich Mielke,
Bộ trưởng An ninh Quốc gia (Stasi) Đông Đức đã thốt lên: “Tôi yêu mến tất cả
mọi người cơ mà… Tôi phấn đấu cho tình yêu đó cơ mà.” (Ich liebe doch alle
Menschen. Ich setze mich doch dafür ein.) Hồ Chí Minh: Tôi hạ lệnh cho nhân
dân
------------------------------
Phạm Thị Hoài (pro&contra)
Tháng 11 30, 2012
Sau đề nghị
của tôi về xưng hô, nhiều độc giả lưu ý rằng cha đẻ của cách xưng hô gia
đình hóa trong xã hội Việt Nam thời đại xã hội chủ nghĩa là vị “cha già dân
tộc”, người tự xưng là “Bác Hồ”. Theo tôi trường hợp “Bác Hồ” không hẳn như
vậy.
Khác với những nhà lãnh đạo từ Lê Duẩn trở đi sau này, Hồ
Chí Minh thuộc thế hệ các nhà cách mạng xuất thân kẻ sĩ – trí thức trong giai
đoạn chuyển tiếp từ Nho học sang Tây học. Xung quanh ông là những người mà tố
chất kẻ sĩ – trí thức ấy không chỉ biểu lộ qua sáng tác văn chương, từ Trường
Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan… đến Xuân Thủy, Cù Huy
Cận, Tố Hữu, Đặng Thai Mai…
Trước khi ngôn ngữ chính trị Việt Nam trở thành một hỗn
hợp của sáo mòn, đơn điệu, vô nghĩa và lố bịch như chuẩn mực ngày nay, nó đã
từng kết hợp được cả học vấn truyền thống lẫn ngọn lửa nóng rực của cách mạng ở
những năm tháng đầu. Cho đến nay tôi chưa thấy một văn bản chính trị viết bằng
tiếng Việt nào vượt qua bản Tuyên
ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1945 về hình
thức biểu đạt và chất lượng ngôn ngữ: hàm súc, khúc chiết, sắc bén, chính xác,
sáng rõ và giản dị. Ngay cả câu mở đầu lấy từ Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ
cũng là một mẫu mực về dịch thuật. Hoặc ngòi bút chính trị của Hồ Chí Minh ở
thời điểm ấy đạt đến độ chín thích hợp nhất, hoặc giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp là chủ đề tâm huyết nhất của cuộc đời ông, nên
những áng văn sau này của Hồ Chí Minh cũng không vượt qua được Tuyên ngôn Độc
lập. Song ngôn ngữ trong hai Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cũng như trong Di chúc vẫn cho thấy một khả năng diễn đạt xuất sắc.
Một người làm việc với ngôn ngữ như thế không thể không có ý thức sâu sắc về
cách xưng hô trong tiếng Việt.
Tôi không ngại nói quá khi khẳng định rằng trước và sau
Hồ Chí Minh, khó tìm thấy một người Việt Nam nào trải qua nhiều tình huống xưng
hô một cách tự nhiên và lịch lãm như ông. Trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, chắc
chắn ông là người đứng đầu nhà nước giữ kỉ lục về tiếp xúc với các tầng lớp và
thành phần đủ mọi lứa tuổi trong xã hội. Chúng ta hãy điểm một số cách xưng hô
của Hồ Chí Minh trong giao tiếp, trước khi “Bác Hồ” trở thành quy phạm xưng hô
của người Việt[1].
Xưng hô chính thức và đầu tiên của Hồ Chí Minh trước công
luận là trong câu hỏi nổi tiếng, khi ông đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945:
“Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?“. Đồng bào và tôi. Từ
bao giờ cách gọi đồng bào này biến mất? Có lẽ từ khi ông qua đời? Mỗi
lần nói với toàn thể hay một tập hợp người Việt ông đều dùng chữ đồng bào
này. Ở các lời tuyên bố, kêu gọi, thường là Hỡi đồng bào cả nước, Kính
cáo đồng bào. Ở các cuộc tiếp xúc, thường là Thưa đồng bào hay Thưa
đồng bào yêu quý. Trong thư, thường rất cụ thể: Gửi đồng bào Công giáo,
đồng bào Mán, đồng bào nông gia, đồng bào hậu phương, đồng bào tản cư, đồng bào
Nam bộ, đồng bào văn hóa và trí thức, đồng bào điền chủ… Và xưng tôi
hoặc chúng tôi, khi ông thay mặt chính phủ phát biểu. Xưng hô cuối cùng
của ông, trong Di chúc, cũng giữ nguyên như vậy: đồng bàovà tôi.
Từ vị trí xưng tôi hay chúng tôi, Hồ Chí
Minh uyển chuyển khi đứng trước những đối tượng khác nhau. Những người như
Nguyễn Hải Thần, Vũ Công Khanh được ông gọi là tiên sinh, tướng Trần Tu
Hòa là Trần tướng quân, giám mục Lê Hữu Từ là cụ, linh mục Lê Văn
Yên là ngài, các ông Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố… đều
là cụ, bác sĩ Vũ Đình Tụng là ngài, đại diện các gia đình hảo tâm
quyên góp cho chính phủ là các bà và các ngài, hội hảo tâm là quý
hội, một ông lang đạo ở Hòa Bình là ông, Chủ tịch Quốc hội là cụ
chủ tịch, một bộ trưởng làcụ bộ trưởng, đại diện các ủy ban nhân dân
là các bạn… Ông thưa các cụ và các chú, thưa các ngài trong giới công
thương, thưa các vị linh mục, thưa các vị kỳ lão và nhân dân, thưa anh
chị em thanh niên Nam bộ, thưa toàn quốc đồng bào và toàn thể đồng chí, thưa
các bậc phụ huynh, thưa các hiền nhân chí sĩ, thưa các bạn sĩ, nông, công,
thương, binh, thưa các ông bộ trưởng, thưa các bạn nhân viên chính phủ, thưa
hai cụ già du kích, thưa anh em họa sĩ, thưa các vị thân hào thân sĩ, thưa
những người bạn Pháp ở Đông Dương, thưa ngài Thống chế Stalin, thưa bà cụ, thưa
lão du kích… Trong một bức thư gửi ngụy binh, ông gọi họ làanh em.
Gửi những người đi lính cho Pháp và bù nhìn, ông viết: tôi thiết tha kêu gọi
các người. Viết thư cho gia đình mình, ông đề: Gửi họ Nguyễn Sinh và
xưng tôi. Tất cả cho thấy một nghệ thuật xưng hô lão luyện.
Vậy “Bác Hồ” từ đâu ra?
Ngay trong tháng 9-1945, Hồ Chí Minh xưng là Già Hồ
gửi thư đến các trẻ em yêu quý. Trong “Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm
Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” 1945, ông viết: “Các
em, đây là Hồ Chí Minh nói chuyện với các em… Các em có hứa với tôi như thế
không?… Chào các em, Hồ Chí Minh“, một phong cách không giấu ảnh hưởng của
ngôn ngữ và văn hóa phương Tây. Trong thư gửi học sinh, ông cũng xưng là tôi,
gọi học sinh là các em. Nói chuyện với thanh niên, ông gọi họ là các
anh em, xưng là tôi. Trong một bài thơ tặng cháu Nông Thị Trưng, ông
gọi cháu và xưng ta.
Lần đầu tiên Hồ Chí Minh xưng bác và gọi cháu
là trong “Trả lời thư chúc mừng của Hội Nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, huyện
Phú Xuyên, Hà Đông” ngày 10-5-1947: “Bác cảm ơn các cháu. Bác khuyên các
cháu: Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước. Bác hôn các
cháu.” Và kí với Hồ Chí Minh, chứ không với Bác Hồ. Ba tháng
sau, trong “Thư gửi nhi đồng toàn quốc nhân kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám” năm
1947, danh xưng Bác Hồ xuất hiện và từ đó được sử dụng.
Song tôi phải nhấn mạnh: Hồ Chí Minh chỉ xưng bác
trong hai trường hợp quan hệ. Thứ nhất, trường hợp bác – cháu, với nhi
đồng. Điều này không có gì là chướng. Ở tuổi 55 khi lên làm Chủ tịch nước, đối
với người Việt thuở đó Hồ Chí Minh đã là một người già. Phóng viên báo chí
thường gọi ông là Cụ Chủ tịch, cũng như ông gọi những người trạc tuổi
mình làcụ. Trong bối cảnh ấy, xưng hô bác – cháu của Hồ Chí Minh
với nhi đồng là tự nhiên. Không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào cho đến nay biết
nói với trẻ em một cách nghiêm túc và tôn trọng mà vẫn không kém thân thiết như
“Bác Hồ”[2].
Cuối thư gửi nhi đồng, Hồ Chí Minh thường hôn các cháu. Trong một bức
thư, ông còn hôn các cháu rõ kêu, một cử chỉ rất Tây được diễn đạt rất
Việt.
Trường hợp xưng bác thứ hai của Hồ Chí Minh là
trong quan hệ với những người kém tuổi mình. Bác ở đây không phải là bác –
cháu, mà làbác – cô/chú
Chúng ta không lạ cách xưng tôi, gọi một người kém
tuổi là chú hay cô nói chung, một cách xưng hô khá trung lập,
không nhất thiết gây ấn tượng gia đình chủ nghĩa mà vẫn giữ được sự thân mật và
khoảng cách tuổi tác. Với những người cộng sự gần gũi như Vũ Đình Huỳnh, Cù Huy
Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn Khánh Toàn…, Hồ Chí Minh sử dụng cách xưng hô này.
Xưng tôi hoặc anh. Gọi chú. Trong phạm vi quan hệ hẹp, ít
khi trước công luận.
Ở Berlin, nơi có cộng đồng Nghệ An lớn nhất hải ngoại,
tôi học được rất nhiều từ Việt cổ và những thói quen ngôn ngữ khác xa tiếng
Việt phổ thông. Người xứ Nghệ có thể xưng tôi hay tui, tau với
cha mẹ. Cha mẹ có khi gọi con cái, bất kể con trai hay con gái, là ông.
Và họ dùng tràn lan bác – chú, cứ nhiều tuổi hơn xưng bác, ít
tuổi hơn xưng chú, phơi phới giữa Berlin. Hồ Chí Minh, người xứ Nghệ nổi
tiếng nhất, bôn ba qua bao nhiêu xứ sở, ngôn ngữ và văn hóa, có lẽ vẫn giữ thói
quen xưng hô ấy.
Ông khá thọ và mất ở tuổi 79. Người hơn tuổi ông thuở ấy
không nhiều. Nên với đại đa số thì ông hoặc là bác với các cháu
nhi đồng theo trường hợp thứ nhất, hoặc là bác với các cô, các chú
theo trường hợp thứ hai. Một lúc nào đó, ông đương nhiên trở thành và chỉ còn
là “Bác Hồ”.
Gần nửa thế kỉ sau khi qua đời, Hồ Chí Minh chưa thôi là
điểm cọ xát gay gắt cho dân tộc mà ông đã dẫn ra khỏi ách thực dân rồi dắt vào
tròng chuyên chế. Cả vị thánh lẫn kẻ tội đồ trong ông đều đã thuộc về lịch sử,
đã hết hạn sử dụng, song dân tộc bị chia rẽ sâu sắc này vẫn tiếp tục hoặc lấy
ông làm cẩm nang và lá chắn, hoặc dùng ông làm cái ổng nhổ để trút mọi oán hận.
Ông là tấm gương khi người ta
không biết soi vào đâu nữa. Ông là nguyên ủy của mọi vấn nạn, kể cả vấn nạn
xưng hô, khi người ta không biết tìm đáp án từ đâu. Trong sự tuyệt vọng của
chúng ta, Hồ Chí Minh là chiếc bung xung lí tưởng.
Không phải vì công bằng mà tôi bênh vực cách xưng hô của
Hồ Chí Minh. Một người đầy ý thức tự thêu dệt huyền thoại, một người không chùn
tay cho vay khống những khoản tín dụng lịch sử đáng ngờ như ông thì không chờ
đợi gì nhiều ở lẽ công bằng cho cá nhân mình. Điều tôi mong muốn đơn giản là:
chúng ta hãy thôi tự lố bịch, bằng cách chấm dứt cả những lời ca tụng nực cười
lẫn những lời kết án vô lối đối với Hồ Chí Minh. Trách nhiệm thật của ông ở
những điểm hệ trọng của lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn
trong sự nghiệp phá hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông
nhỏ hơn tai tiếng rất nhiều.
© 2012 pro&contra
[1] Tất
cả các trích dẫn trong bài rút từ Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
[2] Để
so sánh: năm ngoái một
nhà lãnh đạo ngành giao thông Việt Nam đã chân tình khuyên học sinh như sau: “Nếu các cháu khi đi xe gắn máy không được cha mẹ
đội mũ bảo hiểm thì kiên quyết không đi, hoặc hãy khóc to để được cha mẹ cho
đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông”.
- Phạm Thị Hoài: Trường hợp “Bác Hồ” (pro&contra). “Trách nhiệm thật của ông ở những điểm hệ trọng của lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn trong sự nghiệp phá hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông nhỏ hơn tai tiếng rất nhiều”.
- Phạm Thị Hoài: Trường hợp “Bác Hồ” (pro&contra). “Trách nhiệm thật của ông ở những điểm hệ trọng của lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn trong sự nghiệp phá hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông nhỏ hơn tai tiếng rất nhiều”.
No comments:
Post a Comment