24-05-2013
Tháng 8-2001, tôi ghé thăm một phóng viên báo Tuổi Trẻ
đang học báo chí ở đại học Fullerton, California. Cô khoe, nhóm sinh viên đến
từ Việt Nam vừa đấu tranh thành công để cờ đỏ sao vàng được treo ở trại hè do
trường tổ chức.
Cuộc tranh giành màu cờ tại Fullerton trở nên kịch tính
trong năm 2004 khi nhóm sinh viên gốc Việt tuyên bố không tham dự lễ ra trường
nếu cờ đỏ sao vàng được sử dụng theo yêu cầu của các sinh viên đến từ Việt Nam.
Trường Fullerton phải chọn giải pháp không treo cờ của nước nào trong lễ tốt
nghiệp.
Phần lớn người Việt đến Mỹ phải lao động, học tập để vươn
lên, họ không có nhiều thời gian để “care” (quan tâm) đến chính trị Việt Nam.
Tháng 7-1995, khi Hà Nội và Washington thiết lập bang giao, cờ đỏ sao vàng
chính thức được kéo lên trên đất Mỹ. Thật dễ hiểu khi những người Việt vượt
biển trên những chiếc thuyền con, những người Việt đã nằm 15 năm, 17 năm trong
các trại cải tạo, từ chối đứng dưới cờ đỏ sao vàng.
Nhưng phản ứng chỉ bắt đầu quyết liệt vào năm năm 1999,
khi một người đàn ông sống tại Little Sai Gon, tên là Trần Văn Trường, cho treo
trước cửa tiệm ảnh Hồ Chí Minh cùng cờ đỏ sao vàng. Cộng đồng người Việt đã
biểu tình liên tục trong suốt 53 ngày để phản đối. Từ California,”chiến dịch Cờ
Vàng” bắt đầu, dẫn đến việc 14 tiểu bang, gần 100 thành phố công nhận cờ vàng
ba sọc đỏ như một biểu tượng của cộng đồng gốc Việt.
Cờ vàng không chỉ xuất hiện ở Mỹ.
Từ giữa thập niên 1990, nhiều nhà lãnh đạo của Hà Nội
phản ứng gay gắt khi trong các chuyến công du thấy “quần chúng đón rước” không
dùng cờ đỏ sao vàng mà chỉ dùng cờ vàng ba sọc đỏ. Không phải quan chức Việt
Nam nào cũng hiểu chính quyền sở tại không (dại gì) đứng sau những nhóm quần
chúng tự phát đó. Cho tới năm 2004, các nhà ngoại giao Việt Nam ở Mỹ vẫn mất
rất nhiều công sức để ngăn chặn chính quyền các tiểu bang công nhận cờ vàng.
Việc chính quyền tiểu bang công nhận cờ vàng chỉ là một
động thái đối nội. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa rõ ràng không còn tồn tại, chính
quyền Mỹ bang giao với nhà nước CHXHCN Việt Nam và công nhận cờ đỏ sao vàng.
Nhưng, chính quyền Mỹ không thể ngăn cản cộng đồng người Mỹ gốc Việt chọn cho
mình biểu tượng.
Một quan chức Việt Nam và thậm chí một thường dân đang
cầm hộ chiếu nước CHXHCN Việt Nam, trong một nghi lễ chính thức, có quyền chỉ
đứng dưới cờ đỏ sao vàng. Nhưng, một quan chức đi làm “kiều vận” mà không dám bước
vào một ngôi nhà có treo cờ vàng thì sẽ không thể nào bước vào cộng đồng người
Việt. Tất nhiên, bất cứ thành công nào cũng cần nỗ lực từ nhiều phía.
Năm 2006, tôi gặp lại cô bạn phóng viên Tuổi Trẻ từng học
ở Fullerton. Nhà cô vào giờ đó thay vì treo cờ đỏ sao vàng, góc nào cũng tràn
ngập cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi chưa kịp tìm hiểu đó là sự lựa chọn mới của cô hay
đó là cách để có thể hòa nhập vào “cộng đồng”.
Năm 2008, “cộng đồng người Việt Cali” đã biểu tình kéo
dài khi người phụ trách tòa soạn tờ Người Việt, Vũ Quý Hạo Nhiên, cho in tấm
hình chụp một cái bồn ngâm chân có in biểu tượng cờ vàng. Hạo Nhiên, thêm sự cố
2012, đã phải ra đi và biết chắc khó lòng quay trở lại. Biểu tình năm 1999, cho
dù là “ôn hòa”, cũng đã khiến cho Trần Văn Trường phải chạy về Việt Nam.
Cờ đỏ sao vàng khó có thể xuất hiện ở California cho dù ở
đó có xuất hiện một cộng đồng người Việt đến từ miền Bắc.
Nếu như nhiều người dân miền Nam trước đây tin cờ vàng ba
sọc đỏ là biểu tượng của tự do thì đối với phần lớn người dân miền Bắc và thế
hệ trẻ hiện nay ở miền Nam, cờ đỏ sao vàng không hẳn là biểu tượng của chế độ
mà là biểu tượng quốc gia. Nhiều người đã đứng dưới lá cờ ấy để đấu tranh cho
điều mà họ tin là độc lập, tự do; nhiều người đã theo lá cờ ấy mà không phải là
cộng sản.
Nhiều người dân trong nước vẫn dùng cờ đỏ khi bày tỏ lòng
yêu nước.
Tất nhiên cũng cần phân biệt hành động của một số kẻ cực
đoan (chống lại cờ đỏ sao vàng) với hành vi của những quan chức chính quyền.
Ngăn cản những du học sinh đến từ Việt Nam sử dụng cờ đỏ sao vàng cũng là một
việc làm phi dân chủ. Những người hiểu được các giá trị của tự do không thể
ngăn cản người khác đứng dưới một lá cờ mà mình không thích.
Nhiều người Mỹ vẫn treo cờ miền Nam cho tới ngày nay cho
dù nội chiến Bắc – Nam đã kết thúc từ năm 1865. Thật khó để nghĩ tới tình huống
người dân miền Nam Việt Nam được phép treo cờ vàng sau ngày 30-4-1975. Cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm
không chỉ thống nhất non sông mà còn để áp đặt ý thức hệ cộng sản lên người dân
Việt. Một thời, phải “yêu chủ nghĩa xã hội” mới được Đảng công nhận là
yêu nước. Ngay lá cờ nửa đỏ nửa xanh của “mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam”
một tổ chức do Đảng cộng sản lập ra cũng đã biến mất chỉ sau mấy tháng.
Nhiều người Việt Nam nghĩ, làm biến mất lá cờ vàng ba sọc
đỏ là khôn ngoan. Nhiều người cho rằng lá cờ đó thuộc về một chính thể không
còn tồn tại và là biểu tượng của một sự thất bại. Nhiều người được dạy, lá cờ
đó gắn liền với những xấu xa như là “Việt gian, bán nước”.
Cuối năm 2012, sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị bắt
khi rải truyền đơn ở Long An có kèm theo biểu tượng cờ vàng.
Chúng ta không có đủ thông tin để khẳng định Phương Uyên
và Nguyên Kha chủ động chọn lá cờ này hay được hướng dẫn “bởi các thế lực bên
ngoài”. Cho dù lá cờ ấy đến từ bên nào cũng cho thấy cờ vàng đã không biến mất
như nhiều người mong muốn. Cho dù không ai biết được lá cờ nào sẽ được chọn
trong tương lai, sự trở lại của cờ vàng buộc chúng ta phải thừa nhận, trong nội
bộ người Việt với nhau còn bao gồm cả người Việt Nam quốc gia và người Việt Nam
cộng sản.
Và, trong không gian nước Việt cũng không chỉ có người
Việt.
Chín mươi triệu người dân Việt Nam rõ ràng không phải là
“con một cha, nhà một nóc”. Khi “mở cõi” xuống phía Nam, các bậc tiền bối đã
từng mang cuốc nhưng cũng đã từng mang gươm.
Người dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên và những bộ tộc
Chăm chưa hẳn không còn nghĩ tới đế chế Champa. Những chính khách đối lập ở
Campuchia vẫn thường khai thác chủ nghĩa dân tộc cực đoan khi nhắc Sài Gòn và
một số tỉnh miền Tây một thời là đất đai của họ…
Sự khác biệt đó trong cộng đồng Việt Nam có thể là những
mối đe dọa, đồng thời, cũng là nền móng để xây xựng một Việt Nam thống nhất mà
đa dạng. Một quốc gia sẽ trở nên vững mạnh khi sự đa dạng được thừa nhận. Một
quốc gia cũng có thể rơi vào sự hỗn loạn hoặc không thể phát triển nếu sự thống
nhất bị phá vỡ.
Nhưng, thống nhất quốc gia mà không
dựa trên nền tảng hòa giải quốc gia thì sự thống nhất đó chỉ là tạm thời. Thống
nhất quốc gia mà bằng cách ém nhẹm lịch sử và dùng vũ lực để dập tắt sự trỗi
dậy của những sự khác biệt thì chẳng khác nào gài vào thế hệ tương lai một trái
bom.
Nam Tư thời Tito được coi là thịnh trị, các cuộc nổi dậy
đều bị dập tắt. Nhưng, ngay những ngày đầu thời hậu Tito, nước Nam Tư bắt đầu
rơi vào một thập niên xung đột. Các sắc tộc chém giết lẫn nhau, cơ cấu liên
bang sụp đổ. Không chỉ có Nam Tư, Indonesia hồi thập niên 1990 và Myanmar hiện
nay cũng đang diễn ra những điều tương tự.
Đừng sợ những người Khmer ở miền Tây sẽ đòi mang đất về
Campuchia trừ khi Việt Nam kém phát triển và ít tự do, dân chủ, hơn quá nhiều
so với Campuchia. Không có người dân Arizona nào không biết đất ấy từng thuộc
về Mexico nhưng không ai đòi đưa Arizona trả về cho “đất mẹ”. Ranh giới quốc
gia càng ngày càng trở nên mong manh. Ở đâu có cơm no áo ấm hơn, ở đâu có tự do
hơn, thì người dân sẽ chọn.
Sự khác biệt và đa dạng lúc nào cũng có thể bị kích động
bởi các thế lực cực đoan. Không phải độc tài, toàn trị mà theo kinh nghiệm của
những quốc gia thành công, càng nhiều tự
do thì càng tránh cho sự khác biệt đó trở thành xung đột.
Tiến trình tự do cũng phải mất thời gian để thuyết phục
không chỉ với những người đang cầm quyền mà cả những người dân bình thường và
những thành viên trên facebook này. Trong ngày 30-4, có thể nhiều người không
muốn treo cờ đỏ sao vàng (khi bị tổ dân phố yêu cầu) nhưng chính họ, chưa chắc
đã hài lòng khi nhà hàng xóm treo cờ vàng ba sọc đỏ. Vấn đề là chính quyền phải
làm sao để mọi phản ứng đều phải ở dưới hình thức ôn hòa.
Câu chuyện đốt cờ Mỹ sau đây có thể giúp ta có thêm thời
gian suy nghĩ.
Nhiều thập niên sau nội chiến (1861-1865) nhiều người Mỹ
lo ngại giá trị quốc kỳ bị giảm khi nó được các thương gia dùng để vẽ logo và
đặc biệt khi nhiều người da trắng ở miền Nam thích treo cờ miền Nam
(Confederate flag) hơn. Để phản ứng lại điều này, 48 tiểu bang của Hoa Kỳ đã
thông qua luật cấm mạo phạm quốc kỳ, các hành động như xé, đốt, dùng cờ để
quảng cáo… đều bị cấm.
Năm 1905, Halter đã
bị tòa tiểu bang buộc tội “khi kỳ” khi bán những chai bia có in cờ Mỹ. Năm
1907, Halter tiếp tục thua kiện ở Tối cao pháp viện.
Cho tới năm 1968, Quốc hội Mỹ vẫn thông qua luật cấm
“đụng chạm” tới quốc kỳ sau khi một nhóm người Mỹ chống chiến tranh Việt Nam
đốt cờ ở Central Park. Nhưng một năm sau đó, khi nghe tin cảnh sát bắn James
Meredith, một nhà hoạt động dân quyền, Sydney Street đã đốt một lá cờ Mỹ ở một
ngã tư của New York. Ông bị bắt và bị buộc tội “khi kỳ”.
Sydney Street kháng án vì cho rằng: “Nếu cảnh sát làm
điều đó với Maredith chúng ta không cần lá cờ Mỹ”. Tối cao pháp viện đã bác án
của tòa New York vì, Hiến pháp bảo vệ quyền bày tỏ chính kiến khác nhau, bao
gồm cả quyền thách thức hay khinh thường quốc kỳ.
Cuộc đấu tranh đã không dừng lại.
Năm 1972, một học sinh ở Massachusetts, Goquen, bị bắt,
bị xử 6 tháng tù khi may một cờ Mỹ ở đít quần. Nội vụ được chuyển lên Tối cao
pháp viện. Tối cao pháp viện tuyên bố luật tiểu bang (dùng để xử Goquen) là vi
hiến. Các vị thẩm phán Tối cao cho rằng, trong một quốc gia đa văn hóa, có
những hành động mà người này cho là “khinh ” thì người kia lại cho là trân
trọng, cho nên, chính phủ không có quyền bảo người dân phải bày tỏ thái độ, ý
kiến theo cách nào.
Năm 1984, để phản đối các chính sách của Tổng thống
Reagan, Lee Johnson đã nhúng dầu và đốt một lá cờ trước cửa cung đại hội của
đảng Cộng hòa. Ông bị bắt, bị xử tù 1 năm và phải nộp phạt 2000 dollars. Tòa
tối cao tiểu bang Texas bảo vệ Johnson và cho rằng tòa án cấp dưới sai khi coi
hành vi “gây xáo trộn xã hội” của Johnson là “tội”. Theo Tòa tối cao Texas: Tạo
ra sự bất ổn, tạo ra sự xáo trộn, thậm chí tạo ra sự giận dữ của người dân là
cần thiết, vì chỉ khi đó chính phủ mới biết rõ nhất chính kiến người dân.
Vụ việc dẫn tới, năm1989, Tối cao pháp viện Mỹ quyết định
bãi bỏ các luật cấm đốt cờ ở 48 tiểu bang. Các quan tòa đưa ra phán quyết này
giải thích rằng, nếu tự do bày tỏ chính kiến là có thật nó phải bao gồm cả tự
do bày tỏ những ý kiến mà người khác không đồng ý, hoặc làm người khác khó
chịu. Ngay cả thái độ với quốc kỳ, chính phủ cũng không có quyền bắt người dân
chỉ được gửi đi những thông điệp ôn hòa và không làm cho ai khó chịu. Cuộc
tranh cãi kéo dài tới nhiều năm sau, Quốc hội Mỹ có thêm 7 lần dự thảo tu chính
án để chống lại phán quyết này nhưng đều thất bại.
Việc để cho người dân treo lá cờ cũ của phe bại trận miền
Nam, việc để cho người dân quyền được bày tỏ thái độ, kể cả bằng cách đốt cờ,
đã không làm cho giá trị quốc kỳ của Hoa Kỳ giảm xuống.
Những điều trên đây rõ ràng chưa thể xảy ra ở Việt Nam.
Nhưng chúng ta cũng không nên coi đấy là độc quyền của Mỹ. Người dân Việt Nam
cũng xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Người dân Việt Nam, dù là Việt hay H’mong,
dù là Khmer hay Chăm… cũng xứng đáng được gìn giữ và phát triển sự khác biệt
của mình. Người Việt Nam, dù là cộng sản hay quốc gia, cũng xứng đáng có quyền
bày tỏ những gì mà mình tin tưởng.
Không thể có tự do trong một chế độc
tài toàn trị. Nhưng, tự do cũng không thể có nếu như mỗi người dân không tự
nhận ra đó là quyền của mình. Bạn không thể hành động như một người tự do nếu
không bắt đầu bằng tự do trong chính tư duy của bạn.
Nguồn: FB Osin HuyDuc
No comments:
Post a Comment