Tiến sỹ Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC Việt ngữ từ London
Cập nhật: 16:58 GMT -
thứ hai, 16 tháng 12, 2013
Trong cuộc họp báo quốc tế đầu tiên sau khi được bầu vào
chức Tổng Bí thư tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng Một năm
2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng ông không muốn ‘tạo dấu ấn’ cho riêng
mình trong cương vị mới này.
Nhưng sau gần ba năm tại chức,
xem ra ông đã để lại không ít ‘dấu ấn’ và có nhiều phát biểu khá ‘ấn tượng’.
Chẳng hạn, trong lần tiếp xúc
cử tri tại Quận Ba Đình, Hà Nội vào đầu tháng 12 này, khi cử tri bày tỏ bức xúc
về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam ông đã nói: ‘Đường Tăng khi xưa đi lấy
kinh sang đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh’.
Ví dụ thật ‘dí dỏm’ và phát
biểu rất ‘ấn tượng’ trên của ông Tổng Bí thư đã được báo chí trong nước trích
dẫn và đặc biệt cư dân mạng bình phẩm rất nhiều trong những ngày qua.
Câu nói ấy của ông được bàn
luận nhiều vì – dù không nói trực tiếp – ông coi bản chất của con người là
không lương thiện, gian trá, dễ đi bị tha hóa, sẵn sàng làm điều xấu để đạt
được mục đích của mình vì ngay cả ‘Đường Tăng’ (một người thuộc giới tu hành)
‘tới đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh’.
Bản chất con người thiện hay ác
luôn là một đề tài quan trọng và cũng là một chủ đề gây nhiều tranh luận – đặc
biệt trong triết học, nhân bản học hay giáo dục.
Nhưng cứ cho rằng con người có
tính bản ác, dễ bị tha hóa và ‘tham nhũng là vấn đề của mọi chế độ, mọi quốc
gia, mọi thời kỳ’ như ông Trọng khẳng định, một câu hỏi được đặt ra là tại sao
tham nhũng ở Việt Nam lại nhiều hơn những nước khác?
Nói cách khác, phải chăng người
Việt có tính bản ác nhiều hơn – hay ít hướng thiện hơn – người châu Âu, Mỹ hay
những nước như Đông Nam Á khác như Singapore nên mới đi hối lộ và tham nhũng
nhiều như vậy?
Không phải vì bản chất
Theo chỉ số tham nhũng của Tổ
chức minh bạch Quốc tế (International Transparency) năm 2013, Việt Nam bị xếp
thứ 116 – sau xa các nước ASEAN khác như Singapore (5) và Malaysia (53) – trên
175 quốc gia, lãnh thổ được International Transparency (IT) khảo sát, đánh giá.
Kết quả của IT cũng cho thấy
tình trạng tham nhũng ở Việt Nam trong những năm qua cũng không giảm mặc dù
Đảng Cộng sản đã có những chiến dịch, chủ trương chống tham nhũng rầm rộ – như
việc ‘kiểm điểm, tự phê bình và phê bình’ theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI
– vì năm 2010 Việt Nam cũng bị IT xếp thứ 116.
Điều đáng là nếu dựa trên chỉ
số của Tổ chức minh bạch Quốc tế, không ai có thể hay dám khẳng định rằng người
Việt dễ bị tha hóa hay tham nhũng hơn người Malaysia hoặc người thuộc các nước
châu Âu, như Đan Mạch và Phần Lan.
Trái lại, nếu nhìn qua những
chỉ số ấy và so sánh với các chỉ số khác – như dân chủ hay tự do báo chí – chắc
ai cũng có thể hiểu được tại sao ở Việt Nam hay Bắc Hàn có nhiều tham nhũng hơn
những quốc gia như Đan Mạch hay Phần Lan.
Có thể nêu ra một vài ví dụ,
chỉ số cụ thể.
Ngoại trừ Singapore, hầu hết 20
quốc gia, lãnh thổ được International Transparency đánh giá có ít tham nhũng
nhất năm 2013 là những nước được The Economist và Reporters Without Borders (Tổ
chức phóng viên không biên giới) xếp đầu trong chỉ số dân chủ và chỉ số tự do
báo chí của mình năm và 2013.
Cụ thể hơn, năm nước đứng đầu
về chỉ số minh bạch (hay có ít tham nhũng nhất) – là Đan Mạch, New Zealand,
Phần Lan, Thụy Điển và Na Uy – cũng là năm quốc gia được The Economist xếp đầu
về chỉ số dân chủ.
Do vậy, có thể nói ở đâu có một
thể chế chính trị cởi mở, dân chủ, có tự do báo chí thì ở đó tình trạng tham
nhũng ít vì trong một xã hội như thế mọi lời nói và hành động của một chính trị
gia hay một đảng phái chính trị luôn bị người dân, các phe đối lập và đặc biệt
báo chí theo dõi, giám sát, phanh phui.
Và qua những ví dụ trên, có thể
khẳng định rằng tham nhũng nhiều hay ít không phải là ở bản chất con người mà
là ở thể chế chính trị. Một ví dụ cụ thể hơn để chứng minh điều đó là trường
hợp Bắc và Nam Hàn. Ai cũng biết cả hai quốc gia này đều thuộc bán đảo Triền
Tiên, có chung ngôn ngữ và văn hóa, nhưng chỉ khác nhau về thể chế chính trị.
Một nước thì có đa đảng, dân
chủ, tự do – được Tổ chức Phóng viên không biên giới xếp thứ 50 về tự do báo
chí và The Economist xếp thứ 20 về dân chủ. Bên kia là một thể chế độc tài, gia
đình trị – bị xếp gần cuối bảng (chỉ trên Eritrea) về tự do báo chí và xếp cuối
bảng về dân chủ.
Vì sự khác biệt về thể chế đó
trong khi Nam Hàn được Tổ chức minh bạch thế giới xếp thứ 46, Bắc Hàn bị xếp
cuối bảng (cùng với Somalia).
Một yếu tố khác có tác động lớn
đến nham nhũng là pháp luật. Cụ thể, trường hợp của Singapore cho thấy nếu một
quốc gia có pháp luật nghiêm minh, quốc gia ấy sẽ có ít tham nhũng. Với vị trí
thứ năm (cùng với Na Uy), Singapore – một quốc gia được coi là có hệ thống pháp
luật rất nghiêm minh, hệ thống tư pháp khá độc lập – là nước Á châu duy nhất
được IT xếp vào 10 nước ít tham nhũng nhất năm 2013 dù đảo quốc này bị Tổ chức
phóng viên không biên giới xếp thứ 149 và The Economist xếp thứ 81.
Vì thể chế, pháp luật
Có thể nói ở Việt Nam tham
nhũng nhiều – hơn những quốc gia khác như Đan Mạch, Phần Lan, Singapore tại –
vì nước này thiếu dân chủ, thiếu tự do báo chí và pháp luật không nghiêm minh.
Các chỉ số về dân chủ, tự do của Việt Nam đều thua các quốc gia trên. Việt Nam
cũng không có một hệ thống luật pháp nghiêm minh.
Cụ thể, Việt Nam đều thua xa
Singapore về hai chỉ số phụ khác được Tổ chức minh bạch thế giới xem xét để
đánh giá tình trạng tham nhũng của một quốc gia là chỉ số về độc lập của hệ
thống tư pháp (judicial independence) và chỉ số về thượng tôn pháp luật (rule
of law).
Chẳng hạn, về thượng tôn pháp
luật, với 1.69 điểm (chỉ số này được đo từ -2.5 đến 2.5), năm 2010, Singapore
có tỷ lệ thượng tôn pháp luật là 93%, trong khi đó với số điểm -0.48, tỷ lệ về
thượng tôn pháp luật ở Việt Nam chỉ có 39%.
Qua những chỉ số trên, việc ông
Nguyễn Phú Trọng coi bản tính con người là hối lộ, tham nhũng là nguyên nhân
dẫn đến tệ nạn tham nhũng ở Việt Nam không thuyết phục chút nào.
Một lý do khác được ông đưa ra
để giải thích tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là ‘do đồng tiền, chạy theo lợi
nhuận, coi thường giá trị con người. Đó là mặt trái của kinh tế thị trường’. Lý
do này xem ra cũng không thuyết phục lắm vì đa số các nước tham nhũng ít – cũng
là những nước phát triển – là những quốc gia áp dụng nền kinh tế thị trường.
Hơn nữa, Việt Nam cũng không
phải hoàn toàn theo kinh tế thị trường vì vẫn còn có ‘định hướng xã hội chủ
nghĩa’. Và trong một chừng mực nào đó sự kết hợp (hơi khập khiểng) này là một
trong những lý do dẫn đến nạn tham nhũng vì trong một nền kinh tế như vậy các
doanh nghiệp nhà nước được nắm vai trò chủ đạo và hiện tại những doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ lớn, tham nhũng nhiều lại là những tổng công ty hay doanh nghiệp
nhà nước.
Hai vụ tham nhũng lớn – được
coi là trong những ‘đại án’ đã và đang bị xét xử trong những ngày này liên quan
đến một công ty con của Ngân Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
(Agribank) và Vinaline – là những ví dụ điển hình.
Trong phát biểu của mình tại
buổi tiếp xúc với cử tri đó Giáo sư Nguyễn Phú Trọng cũng khuyên rằng vì ‘Đường
Tăng khi xưa đi lấy kinh sang đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh’ nên
‘phải xem xét bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt. Phải có cái nhìn khoa học, biện
chứng về tham nhũng’.
Không biết ‘cái nhìn khoa học,
biện chứng về tham nhũng’ của ông Trọng là gì. Nhưng những chỉ số, ví dụ cụ
thể trên chứng minh rằng nếu một quốc gia thực sự dân chủ, có tự do báo chí và
hệ thống luật pháp nghiêm minh – hay có một hoặc hai trong ba yếu tố này – nước
ấy chắc chắn sẽ có ít tham nhũng.
Chẳng hạn, nếu để cho báo chí
được tự do phát giác, phanh phui các vụ tham nhũng – từ nhỏ đến lớn – chắc chắn
tình trạng tham nhũng của Việt Nam không nhiều như vậy. Thời gian gần đây,
chính quyền Việt Nam cho đưa ra xét xử những vụ tham nhũng lớn với những bản án
rất nặng, như chung thân hay tử hình đối với một số lãnh đạo ngân hàng Agribank
và Vinalines.
Cho tiến hành xét xử những vụ
tham ô – còn được gọi là những ‘đại án’ – đó và nghiêm minh trừng phạt những kẻ
tham nhũng là một việc nên làm để giới hạn tệ nạn tham nhũng.
Nhưng một câu hỏi khác được đặt
ra là còn bao nhiều người trong những tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước khác
– hay quan chức lớn nhỏ của Việt Nam – tham nhũng mà chưa được phanh phui, xét
xử, trừng phạt?
Hơn nữa, những vụ ‘đại án’ ấy chắc chắn được ngăn ngừa
hay bị giới hạn – tránh gây thiệt hại lớn về tài sản cho Nhà nước, cho nhân dân
và một số cá nhân không phải mất sinh mạng – nếu có một xã hội thực sự dân chủ, cởi mở và báo chí
được tự do điều tra tham nhũng hay pháp luật nghiêm minh.
Bài viết thể hiện quan
điểm và văn phong của tác giả, hiện làm nghiên cứu tại Viện Global
Policy, London.
No comments:
Post a Comment