Nguyễn Thanh Giang
Posted by basamnews on December
7th, 2013
E
|
mmanuel Kant (1724 – 1804),
người đã từng có đóng góp lớn vào việc nghiên cứu sự vận hành của Trái đất, sự
tồn tại của Đại Thiên hà vũ trụ nằm ngoài Thiên hà chúng ta, lại cũng chính là
nhà bác học rất thích nhắc đi nhắc lại câu ngạn ngữ:
“Hãy thực hiện công lý đi, cho
dù thế giới có tiêu vong”.
Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền do Liên Hiệp Quốc công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948 mở đầu rất thống
thiết:
“Sự xâm phạm và coi thường nhân
quyền dẫn đến các hành động dã man xúc phạm tới lương tâm của nhân loại, và
việc xây dựng một thế giới trong đó con người không còn phải chịu sự khủng bố
và sự khốn cùng, được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng là khát vọng cao nhất
của con người.
Nhân quyền phải được pháp luật
bảo đảm, để mỗi người không còn bị buộc phải – khi không còn cách nào khác –
nổi dậy đấu tranh chống lại sự tàn bạo và áp bức”.
Ngày 25-6-1993, hội nghị thế
giới về nhân quyền
“Trịnh trọng thông qua Tuyên
ngôn Vienna và Chương trình Hành động dưới đây:
Hội nghị thế giới về nhân quyền
khẳng định lại cam kết trịnh trọng của tất cả các quốc gia là hoàn thành nghĩa
vụ của họ về thúc đẩy sự tôn trọng ở khắp nơi, thực hiện và bảo vệ tất cả các
quyền con người và quyền tự do cơ bản cho mọi người phù hợp với Hiến chương
Liên Hiệp Quốc cùng các văn kiện khác liên quan tới quyền con người và luật
pháp quốc tế…” vv…
Từ 1948 đến nay, sau Tuyên ngôn
toàn thế giới về Nhân quyền, Liên Hiệp Quốc đã ban hành tới 53 công ước và văn
bản pháp lý quốc tế liên quan đến lĩnh vực quyền và tự do cơ bản của con người
bao gồm các công ước về các quyền chính trị dân sự, công ước về các quyền kinh
tế, văn hóa, xã hội…Con người hằng khao khát, nhân loại đã dốc bao nhiêu trí
lực nhằm tìm phương cách tốt nhất hiện thực hóa vấn đề quyền con người, nhưng
chính Các Mác thì cho rằng nhân quyền tư sản là “quyền con người của chủ nghĩa
ích kỷ” là “quyền lợi của thành viên xã hội thị dân”. Ông Lý Quang Diệu thì phỉ
báng rằng:
“Vấn đề nhân quyền là mặt trái
của đồng bạc trắng châu Á”.
Ông còn võ đoán:
“Người Nga không hề tin một chữ
nào trong bản tuyên ngôn mà họ đã ký (tức tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân
quyền, 1948 – TG). Còn người Trung Quốc thì bấy giờ đang trong tình trạng hỗn
loạn cực độ. Họ phải giả vờ ủng hộ nhân quyền và tự do gắn liền với nhân loại
để tranh thủ viện trợ của Mỹ và đối phó với sự chống đối của những người cộng
sản”. (1)
Ở Việt Nam, nhân quyền được quy
kết vào quyền công dân. Điều 50, Hiến pháp Việt Nam 1992 ghi
“Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và Luật”.
Một vấn đề rất thiết thân với
con người lại bị chính con người đem ra chế tác, ngụy tạo, phỉ báng! Chẳng
trách gì ở một chuồng thú trong thảo cầm viên tại thủ đô Lusaka, nước Zambia có
treo tấm biển ghi: “Con vật nguy hiểm nhất thế giới”. Nhìn vào chuồng chẳng
thấy gì hết ngoài hình ảnh của chính người đứng xem trong chiếc gương treo
ngang mặt người.
Liệu thế giới có những giá trị
chung về nhân quyền không? Liệu Việt Nam có nhất quyết phải bảo đảm những giá
trị chung đó không?
Người viết bài này vốn chỉ quen
khảo sát các trường Địa vật lý mà “ngoại đạo” đối với “các trường nhân văn” nên
không hy vọng có thể luận đàm hay lý giải về một vấn đề to lớn như vậy mà chủ
yếu muốn trình bày những nhận thức về một khát vọng của nhân loại và mong ước
đất nước mình – với hàng triệu sinh linh khi ngã xuống trong suốt nửa thế kỷ
qua đã tưởng vọng đến những giá trị cơ bản của nhân quyền thông qua các tiêu
chí độc lập, tự do, hạnh phúc – sẽ phải hoàn toàn xứng đáng tận hưởng khát vọng
đó.
1. Những Ý Niệm Về Nhân Quyền
N
|
gày 4 tháng 7 năm 1776, Thomas
Jefferson đã mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bằng sự
khẳng định:
“Chúng tôi coi những chân lý
sau đây là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có
Quyền được sống, Quyền tự do và Quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Có lẽ đây là lần đầu tiên khái
niệm quyền con người được chính thức công bố trên văn bản.
Bản tuyên ngôn khẳng định quyền
con người là hiển nhiên, vốn có, là không thể xâm phạm. Nó xuất hiện và tồn tại
cùng xã hội loài người; không phải vũ đoán hoặc do ý chí áp đặt mà do “tạo hóa”
sinh ra. Các triết gia thời cổ đại từng cho rằng các quyền tự nhiên là tài sản
của tất cả mọi người. Trước đây 36 thế kỷ, Hammourabi – người sáng lập ra
Babylone – quan niệm “Công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh làm hại người yếu”.
J.J. Rousseau, mở đầu cuốn “Khế Ước Xã Hội” với lời tuyên bố “Con người sinh ra
đã là tự do”.
Trong lịch sử phát triển, quan
niệm quyền con người là khả năng bẩm sinh và có tính thực tế đã tạo sức mạnh
cho con người vươn tới tự do và bình đẳng. Xã hội chiếm hữu nô lệ rung chuyển
và sụp đổ do các cuộc khởi nghĩa nhằm giành lại quyền làm người của những người
nô lệ bị chủ nô tước đoạt. Lúc đó ước nguyện cơ bản của quyền con người là
quyền tự do chứ chưa có sự thôi thúc giành giật lợi quyền kinh tế. Khi giai cấp
tư sản giương ngọn cờ dân chủ, tự do, bình đẳng thì đã tập họp được cả xã hội
nhất tề đứng dậy lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến xóa bỏ xã hội thần dân,
xác lập xã hội công dân.
Trên cơ sở quan niệm rằng con
người là sự trừu tượng hóa của tất cả các thực thể cá nhân; coi con người với
tư cách chủ thể của nhân quyền, là các cá nhân đã được trừu tượng hóa và siêu
thoát khỏi những ràng buộc của kết cấu chính trị, xã hội như: màu da, dân tộc,
tôn giáo, quốc tịch…, Tuyên ngôn độc lập 1776 nêu rõ quyền con người gồm ba nội
dung chủ yếu: quyền sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Các
quyền đó bình đẳng đối với từng cá nhân, cho tất cả mọi người, không phân biệt
chủng tộc, giới tính, vị thế xã hội… Bình đẳng là khả năng bẩm sinh của con người.
Mỗi con người đều được tạo hóa phú cho các khả năng về cảm xúc, giao tiếp, tư
duy và nếu có sự phát triển bình thường về thể chất thì đều có quyền được hưởng
các quyền cơ bản của nhân quyền. Sự bất bình đẳng trong các khả năng thụ hưởng
quyền con người chẳng qua là do sự phát triển phái sinh, giả tạo gây ra bởi xã
hội.
Theo sự phân loại chung thể
hiện trong các công ước quốc tế thì nhân quyền bao gồm hai lĩnh vực.
* Thuộc lĩnh vực các quyền dân
sự và chính trị gồm có:
1)
Quyền được sống và không bị tước đoạt sinh mạng một cách độc đoán.
2)
Quyền có an ninh cá nhân, không bị bắt giữ vô cớ hay bị bỏ tù mà không xét xử
công minh.
3)
Quyền không bị đối xử độc ác và không bị tra tấn kể cả khi bị bỏ tù.
4)
Quyền bình đẳng trước pháp luật và không bị áp dụng phép hồi tố bất lợi.
5)
Quyền tự do cư trú và đi lại.
6)
Quyền sở hữu tài sản.
7)
Quyền bất khả xâm phạm đối với đời sống riêng tư, gia đình, nhà “, thư tín.
8)
Quyền được bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm.
9)
Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
10)
Quyền tự do lập hội và hội họp.
11)
Quyền được khiếu nại, tố cáo bất cứ cá nhân, tổ chức nào.
12)
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
13)
Quyền tự do biểu tình.
14)
Quyền được tham gia quản lý xã hội (bầu cử, ứng cử…).
* Thuộc lĩnh vực kinh tế, xã
hội, văn hóa gồm có:
1)
Quyền có việc làm và được hưởng thụ thỏa đáng.
2)
Quyền được chăm sóc về y tế.
3)
Quyền được hưởng nền giáo dục, trước hết là giáo dục tiểu học miễn phí.
4)
Quyền được có nơi cư trú.
5)
Quyền được sống đủ cho bản thân và gia đình.
6)
Quyền được sống trong môi trường không ô nhiễm, độc hại.
v.v…
Chủ nghĩa nhân bản xuất phát từ
nhân tính, coi tự do, bình đẳng, bác ái là thuộc tính con người. Lấy con người
làm điểm xuất phát và cũng là đích cuối cùng, là giá trị cao nhất trong mọi giá
trị, nhân quyền được xếp cao hơn chủ quyền, nhân quyền không có biên giới quốc
gia.
Tuy nhiên chủ nghĩa Mác không
thừa nhận con người trừu trượng, con người khái quát, nên cũng không thừa nhận
khái niệm nhân quyền trên. Mác từng nói:
“Con người quyết không phải là
cái trừu tượng bám đậu ngoài thế giới. Con người chính là thế giới của con
người, chính là quốc gia, xã hội”.
Những người xuất phát từ chủ
nghĩa duy vật lịch sử chỉ xem nhân quyền là quyền lợi của con người với tư cách
là thành viên xã hội, do đó, nhân quyền mà họ được hưởng dù nói về tính chất,
nội dung, hình thức cùng những bảo đảm về tư pháp đều do chế độ xã hội quyết
định. Họ cho rằng nhân quyền chỉ là sự giới định và thừa nhận xã hội mà con
người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và
giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội. Có hay
không có tư cách này tức là có hay không có quyền lợi; tư cách bằng nào thì
quyền lợi bằng nấy.
Trong khi Jan Martenson, Cao ủy
Liên Hiệp Quốc về quyền con người đã khẳng định:
“Trong nhân quyền không có công
dân hạng hai, và không có ai sinh ra để phải ngồi đằng sau cỗ xe nhân quyền”
(2)
thì thậm chí có nhà lý luận
Trung Quốc còn coi
“Nhân quyền trước hết là nhân
quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rất rõ rệt. Ban đầu sự nảy
sinh nhân quyền có cùng một quá trình lịch sử với sự sản sinh giai cấp….
Sự thừa nhận của xã hội đối với
người nào đó, trước hết phải coi người đó là thành viên của giai cấp nào…. Nhân
quyền của giai cấp thống trị là sự hạn chế đối với giai cấp bị trị… Cho dù ngay
trong nội bộ một giai cấp, nhân quyền của mỗi người đều là sự hạn chế đối với
mọi người có quan hệ giao lưu với người đó… “. (3)
Những lý luận kiểu ấy dễ dàng
trở thành nền tảng, thiết lập nên “cái nhân quyền” của giai cấp công
nhân phải khác, và tất nhiên là hơn, nhân quyền của giai cấp nông dân, của tầng
lớp trí thức. “Cái nhân quyền” của những người cộng sản phải là một đặc
quyền. “Cái nhân quyền” của Pol Pot cho phép ông ta tàn sát hàng triệu
đồng bào mình! “Cái nhân quyền” của Stalin trao sứ mệnh cho người ấy đày
đọa, giết hại hàng vạn đồng chí mình! Thật là kinh khủng!!!
Ngay từ thời cổ đại người ta đã
biết quan tâm đến quyền con người. Thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử dụng
các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước
pháp luật. Antigone đã nói đến quyền không vâng lời trước Creon. Spartacus đã
tuyên bố trước những người nô lệ về quyền chống lại áp bức.
Tiếc rằng trong suốt lịch sử
hình thành và phát triển của mình, ở các nước XHCN đã tồn tại phổ biến tinh
thần phủ nhận khái niệm quyền con người. Khi cực chẳng đã phải ngồi bàn thảo về
một nhu cầu hết sức thiêng liêng và toàn diện này thì người ta lại thường nhấn
mạnh sự ưu tiên của các quyền kinh tế – xã hội so với các quyền chính trị và tự
do cá nhân. Họ xem các quyền chính trị và tự do cá nhân chỉ là những xa xí phẩm
chưa cần thiết hoặc không cần thiết đối với quảng đại quần chúng. Ngay giữa hội
nghị nhân quyền Vienna 1993, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Hoa Thu vẫn
còn dóng dả:
“Đối với bất kỳ một nước đang
phát triển nào, vấn đề phát triển kinh tế là quyền con người quan trọng nhất”.
Phải chăng người ta muốn dìm
đầu con người vào cái máng ăn để quên hết mọi thứ khác? Thế rồi cứ vậy, nay họ
cho thêm ít khô lạc, mai chút bột cá là phải tung hô Đảng muôn năm và Đời đời
nhớ ơn lãnh tụ!
Dẫu vậy, việc đề cao quyền kinh
tế xã hội chỉ càng làm cho họ càng thêm “hở sườn” cả về lý luận lẫn trong thực
tế. Xét về mặt đời sống kinh tế thì các nước XHCN nói chung và Trung Quốc nói
riêng đều đã giải quyết rất kém so với các nước Phương Tây.
Còn Việt Nam?
Vì sao cho đến bây giờ chúng ta
vẫn còn là một trong hai mươi nước nghèo nhất thế giới? Cách mạng Việt Nam từ 1930
đến nay đã làm được gì?
Vì sao chúng ta không tập trung
sách lược, chiến lược vào để giải quyết “vấn đề phát triển kinh tế là quyền con
người quan trọng nhất” như quý vị nêu trên?
Thật ngạc nhiên khi nghe một
nhà lý luận biện lý hùng hồn rằng:
“Chỉ có đồ ngốc mới tin rằng:
Một người không có một tý gì ngoài cái mồm ra lại có quyền tự do ngôn luận
giống như người có điện đài, tivi, báo chí và nhà xuất bản; một người không có
một xu đút túi lại có quyền ứng cử ngang với người có thể tiêu hàng triệu, hàng
chục triệu đồng để tranh cử; một người lang thang đầu phố lại có quyền bảo đảm
an toàn thân thể ngang với người có thể thuê được cả vệ sỹ”. (4)
Làm sao lại có thể lộn sòng
giữa nhân và quả, giữa phương tiện và sự thành đạt như vậy được. Cùng một điều
kiện ban đầu nhưng ai cũng đã biết, mọi đối tượng khác nhau đều biến hóa khác
nhau. Cũng như trong xã hội rồi có người làm thầy, làm thợ, làm vua, làm tôi
nhưng Tạo Hóa chí minh, chí công thì chí ít cứ phải “nặn” cho mỗi con người đủ
cả đầu mình, tứ chi và năm giác quan đã. Nhân quyền cũng vậy, tất phải có cái
chung.
2. Thế Giới Cần Thống Nhất Hành Động
Vì Nhân Quyền
V
|
ào cuối thiên niên kỷ thứ hai
này, thế giới, tự giác và không tự giác, đang xích lại gần nhau bằng tốc độ ánh
sáng so với tốc độ máy hơi nước của những năm ra đời bản Tuyên ngôn về Nhân
quyền và Dân quyền 1789. Người ta không chỉ tự giác đập tan bức tường Berlin –
một trong những vết nhơ chia rẽ trắng trợn nhất của nhân loại – mà, với sự xuất
hiện của mạng Internet, ai đó đều rất khó ngăn chặn một thông điệp ngay tức
khắc được truyền đi khắp địa cầu.
Thế giới đang trở nên đầm ấm
biết bao khi những kẻ yêu nhau xa nhau vẫn có thể thường xuyên không chỉ nghe
được tiếng nói của nhau qua điện thoại mà còn có thể trực tiếp nhìn thấy nhau
trên màn hình của máy điện toán cá nhân. Nhưng, thế giới lại cũng đang cùng có
những mối lo chung về lỗ thủng của tầng Ozon, về sự lan truyền của căn bệnh thế
kỷ AIDS, về tổ chức khủng bố xuyên quốc gia v.v…
Trước thực tế của những yếu tố
toàn cầu đó, loài người đang ngày càng ý thức rõ hơn về một chỉnh thể thống
nhất, trong đó mỗi cá nhân không thể chỉ suy nghĩ về mình, mỗi quốc gia không
còn chỉ có thể tự bảo vệ mình mà tất cả cùng phải đặt mình vào cộng đồng chung
toàn thế giới. Từ đây, những lợi ích và giá trị chung toàn nhân loại không
những đang trở thành hiện thực không thể chối bỏ mà còn có ý nghĩa ưu tiên hàng
đầu so với những cái khác.
Sự xuất hiện của những vấn đề
toàn cầu động chạm đến lợi ích của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Sở dĩ như vậy là
vì các quyền của con người bản thân nó vừa chứa đựng những nhu cầu riêng biệt
vừa là phản ánh tổng hợp mọi vấn đề toàn cầu. Mặt khác, mỗi vấn đề toàn cầu
hoặc có hình thức là một quyền xác định của con người hoặc trở thành đối tượng
tác động của chính nó. Các quyền của con người và của các dân tộc đan kết hữu
cơ với những vấn đề toàn cầu và những vấn đề toàn cầu cũng làm nảy sinh sự ra đời
và vận hành các thiết chế và quy phạm chung tạo điều kiện hình thành các lực
lượng chung cùng tham gia giải quyết những vấn đề nhân quyền hướng tới trào lưu
tiến hóa của nền văn minh nhân loại. Nhân quyền cũng đa dạng, cũng phức tạp và
bản thân cũng chứa đầy mâu thuẫn như thế giới nhưng lại cũng phải được quan
niệm thống nhất như chính bản thân thế giới không thể chia cắt, không thể tách
rời.
Phấn đấu thiết chế cho được
những ý niệm chung về nhân quyền và nỗ lực xúc tiến những biện pháp hữu hiệu
nhất để thực hiện hóa việc thực thi và bảo vệ các giá trị chung toàn nhân loại
đó phải là nghĩa vụ thiêng liêng xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái, bảo
đảm sự phát triển ổn định và bền vững cho mỗi quốc gia và cho cả cộng đồng quốc
tế.
Tự do, bình đẳng, công lý chính
là đặc trưng bản chất và yêu cầu cơ bản của nhân quyền. Chính những giá trị
nhân văn cao quý, vĩnh hằng đó sẽ hội tụ nhân loại lại và nâng tầm con người
lên. Khi giương cao ngọn cờ “Tự do hay là chết” thì dù con người có phải hy
sinh người ta cũng chắc chắn là thánh thiện, là không bị dối lừa. Bởi vì, ta
từng thấy trong lịch sử, nếu chỉ biết xả thân dưới ngọn cờ: “Tổ quốc hay là
chết” thì nhiều khi con người dễ bị mê hoặc để tự biến thành vật tế thần cho
một tập đoàn xảo quyệt hoặc một cá nhân cuồng loạn nào đó.
Thật ghê sợ khi vị thủ lĩnh từ
một hòn đảo nhỏ bé gào thét lên: Kẻ thù mà đặt chân lên đất nước này thì
chúng chỉ có thể bước đi trên hoang tàn của máu và tro bụi!
Hàng chục, hàng trăm triệu
người sao lại chỉ có thể được sống, tổ quốc sao lại chỉ có thể được phép tồn
tại khi nó chịu “nhuộm màu” bởi một hệ tư tưởng ABC, chịu tuân theo sự lãnh đạo
của một đảng OPQ, chịu thừa nhận một lãnh tụ XYZ? Sao người ta lại bắt trẻ già
trai gái muốn được thừa nhận là yêu nước thì phải yêu chủ nghĩa xã hội (để rồi
nếu không yêu chủ nghĩa xã hội tức là phản quốc, là không được bảo đảm quyền
được sống). Sao lại phải đốt cháy cả giảy Trường Sơn đi nếu đất nước này không
thuộc về chúng ta?!
Nhân quyền nếu được đề cao đúng
mức, được tôn trọng thực sự thì quần chúng hẳn đã không bị dễ dàng lừa mị để
phải hy sinh vô ích.
Do phải bảo vệ quyền lợi riêng
cho những tập đoàn nhất định, do cần chống đữ để duy trì quyền cai trị của
những chính phủ độc tài, chuyên chế, nhiều nhà chính trị đang ra sức xuyên tạc
vấn đề nhân quyền. Lúc thì họ thổi phồng sự tách biệt giữa các quyền dân sự –
chính trị với các quyền kinh tế – xã hội, lúc thì họ tô mạc tính đặc thù của
nhân quyền phương Đông đối lập với nhân quyền phương Tây, lúc thì họ rêu rao về
nguy cơ uy hiếp chủ quyền của nhân quyền.
Cần trích dẫn để lưu ý ở đây
một số điều đã được ghi nhận trong các văn bản quốc tế về nhân quyền:
- “Nhắc lại tính độc lập và
không thể chia cắt được của các quyền kinh tế – xã hội – văn hóa – dân sự và
chính trị, và sự coi trọng ngang nhau tất cả các thể loại quyền con người”
(điều 10 của Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Nhân quyền châu Á tháng 4-1993).
- “Tất cả các quyền con người
đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau. Cộng đồng quốc
tế phải xử lý các quyền con người theo phạm vi toàn cầu một cách công bằng và
bình đẳng và được coi trọng như nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của
tính đặc thù dân tộc và khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và
tôn giáo, các quốc gia không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa có
nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản”
(điều 5 – Tuyên ngôn Vienna và chương trình hành động tháng 6-1993).
- “Bất cứ hành động chống lại
luật quốc tế nào của quốc gia cũng dẫn tới trách nhiệm quốc tế của quốc gia đó”
(Trích điều mục 1 của Dự án các điều mục về trách nhiệm của các quốc gia về
những vi phạm luật quốc tế).
- “Dân chủ, phát triển và tôn
trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản phụ thuộc lẫn nhau và bổ sung
cho nhau. Dân chủ phải được xây dựng trên nền tảng ý chí bày tỏ tự do của nhân
dân về sự lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của mình và
sự tham gia đầy đủ của họ vào mọi lĩnh vực đời sống. Theo cách đề cập như trên,
việc đề cao và bảo vệ các quyền con người và quyền tự do cơ bản trên bình diện
quốc gia và quốc tế cần mang tính phổ cập và được thực hiện vô điều kiện. Cộng
đồng quốc tế cần ủng hộ việc tăng cường và đề cao dân chủ, phát triển và tôn
trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản trên toàn thế giới. (Điều 8
Tuyên ngôn Vienna và chương trình hành động của Hội nghị thế giới về nhân quyền
ngày 25-6-1993).
Xuất phát từ những yêu cầu bức
xúc của các quyền kinh tế – văn hóa – xã hội, những người cộng sản đã từng nắm
tay nhau hát vang bài “Quốc tế ca“, “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế
gian… “. Các Mác đã từng kêu gọi thống thiết: “Vô sản toàn thế giới liên
hiệp lại!“. Trước những yêu cầu tổng hòa và thiêng liêng của nhân quyền
trong thế giới hiện đại, liên minh của cả cộng đồng nhân loại càng phải rộng rãi
hơn. Liên minh vì nhân quyền sẽ không phân biệt kẻ giàu với người nghèo, “lục
địa đen” đói rách hay “mái nhà chung” của những người da trắng sang trọng,
phương Đông với các nền văn minh Hoàng Hà và Euphrate hay phương Tây với
Hollywood và Baikonur.
Tổng thống nước Cộng hòa Pháp
Francois Mitterrand từng trăn trở với câu hỏi: Liệu người ta có thể hoạt động
chung được không, nếu tất cả các giá trị đều là tương đối và do đó triệt tiêu
lẫn nhau?, và ông tự trả lời: Làm thế nào có thể khác hơn là xác định một số
tối thiểu giá trị phổ quát để chí ít đặt nền tảng cho sự đoàn kết giữa những
con người. Chính ông đã từng khẳng định:
“Trong thế giới ngày nay, không
ai có thể tự cứu mình bằng cách chống lại người khác. Tình trạng ngày càng phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và văn hóa buộc người ta phải đoàn kết”.
Sẽ không mấy ai đồng tình với ý
đồ lợi dụng trong lời tuyên bố phi nhân quyền của cố vấn tổng thống Hoa Kỳ
Brezinski: “Với ngọn cờ quyền con người chúng ta sẽ dồn chủ nghĩa cộng sản đến
tận chân tường”, song, vì những lý tưởng nhân quyền phải được thấm nhiễm đến
mỗi cộng đồng dân tộc đến từng số phận con người, nên sự quan tâm của mỗi cá
nhân, của mỗi quốc gia đến nhân quyền là tất yếu. Bởi vậy, một thái độ như được
biểu thị trong diễn văn của tổng thống Jimmy Carter đọc tại lễ kỷ niệm 30 năm
Tuyên ngôn về Nhân quyền là cần thiết khi ông nói:
“Nguyên tắc quyền con người là
linh hồn của chính sách đối ngoại của Mỹ, là một nhân tố để xác định mọi quan
hệ của Mỹ với các nước khác”.
Ngoại trưởng Joe Clark cũng
từng khẳng định trong lễ khai trương chính thức Trung tâm Quốc tế về Nhân quyền
và Phát triển Dân chủ:
“Canada có thể sẵn sàng ngừng
quan hệ với chế độ nào vi phạm nhân quyền một cách nghiêm trọng, trong khi, có
thể bằng các biện pháp khác, dành viện trợ trực tiếp cho những người cần đến”.
Đầu năm 1990, tổng thống Pháp,
thứ trưởng Ngoại giao Mỹ và Ngoại trưởng Anh cũng từng công bố rằng chính phủ
nước họ cũng dự định làm một mắt xích tương tự giữa chính sách viện trợ và nhân
quyền.
Đúng là phải như vậy! Phải thực
sự như vậy mới xứng đáng là những con người, những chính phủ đang cùng quây
quần lại trong hành tinh xanh đầm ấm này mà vây bọc quanh nó là vô vàn tinh tú
lấp lánh sáng chứ! Đừng úp mặt vào sự sung túc về vật chất và tinh thần của cá
nhân mình của quốc gia mình rồi lãng quên, rồi vô trách nhiệm với những cộng
đồng người còn bị những tập đoàn này nọ nhân danh Đảng, nhân danh nhà nước,
nhân danh lãnh tụ… tước bỏ hay hạn chế thụ hưởng những giá trị thiêng liêng của
nhân quyền.
Dẫu sao trách nhiệm của Liên
Hợp Quốc trong vấn đề nhân quyền vẫn là quan trọng hơn cả. Trước hết, Liên Hợp
Quốc cần tăng cường mạnh mẽ truyền thông nhân quyền. Cần phát đến từng đơn vị
dân cư ở các quốc gia những bản tin, những tài liệu giải thích, những tuyên bố,
những công ước… về nhân quyền bằng tiếng của chính các đơn vị dân cư đó. Cần tổ
chức và loan tải rộng khắp các chương trình phát thanh và truyền hình về nhân
quyền. Đài “Châu Á Tự Do” của Hoa Kỳ nếu thực sự muốn đảm trách và làm được
công việc này một cách đúng đắn cũng sẽ được ủng hộ và hoan nghênh. Quyền hạn
và nghĩa vụ của Liên Hợp Quốc cần thực sự tăng cường đối với việc thực thi để
hiện thực hóa quyền con người một cách có hiệu quả. Đã đến lúc cần thành lập
các tổ chức như kiểu một Ủy ban Liên quốc gia về Quyền con người và một Tòa án
Quốc tế về Quyền con người. Ủy ban này có thể được giao toàn quyền xem xét các
đơn khiếu nại về tội vi phạm quyền con người của từng cá nhân riêng lẻ hay của
một cộng đồng người bất kỳ. Tòa án Quốc tế nhân quyền sẽ thụ lý hồ sơ xem xét
sau khi thông qua Ủy ban, nếu Ủy ban, vì những lý do nào đó, không thể giải
quyết thỏa đáng các đơn khiếu nại.
Do chính sách bảo thủ và ngoan
cố của một số nước, Hội nghị Quốc tế về Nhân quyền Vienna 1993 chưa thể đi đến
quyết định, nhưng tin chắc rằng việc cắt cử một cao ủy Liên Hợp Quốc đặc trách
nhân quyền ở từng nước sẽ phải được thực thi. Bởi vì, đúng như nhà xã hội học
Nga Penovskin đã nói:
“Quá trình điều tiết bằng luật
pháp quốc tế (khu vực và phổ biến) các mối quan hệ có liên quan đến các quyền
của con người không phải là cái gì khác mà chính là biểu hiện đặc thù của quá
trình loài người trưởng thành lên với tính cách là một chỉnh thể thống nhất”.
(5)
3. Quyền Con Người Ở Việt Nam
N
|
hững điều khoản quy định về
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam không ngừng được tăng lên, về số
lượng, qua các bản Hiến pháp. Hiến pháp 1946 có 18 điều. Hiến pháp 1959 có 21
điều. Hiến pháp 1980 có 29 điều. Hiến pháp 1992 có 34 điều, tăng gần gấp đôi số
điều trong Hiến pháp 1946. Tuy nhiên, như đã nói ở phần mở đầu bài này, quyền
con người ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 50 Hiến pháp 1992, được “khoán
gọn” vào quyền công dân.
Trước hết phải thấy rằng quyền
con người và quyền công dân không hề đồng nhất cả ở phương diện chủ thể lẫn nội
dung. Quyền con người có thể không loại trừ khái niệm quyền công dân nhưng khái
niệm quyền công dân không thể chứa đựng hết khái niệm quyền con người. Vả
chăng, với sự phát triển của các giá trị nhân đạo mới, trong điều kiện toàn cầu
hóa của thế giới hiện đại, con người không chỉ tồn tại với tính cách là một
thành viên công dân của một quốc gia mà còn là thành viên “công dân” của cộng
đồng thế giới.
Quyền con người, hay chỉ là
quyền công dân thôi, cũng phải được bảo đảm bằng một chế độ pháp luật. Ngay từ
thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, nhà thông thái Hy lạp Salon đã quan niệm: Ta
giải phóng tất cả mọi người bằng pháp luật. Heraclit cũng cổ võ: Nhân dân phải
đấu tranh bảo vệ luật như bảo vệ chốn nương thân mình. Thế kỷ 17 – 18, cách
mạng tư sản đã từng đề cao những nguyên tắc của luật pháp: Đối với công dân,
được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn đối với viên chức nhà
nước, thì chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép.
Tiến sỹ khoa học pháp lý Nersesjanc,
trưởng ban nghiên cứu Viện Hàn lâm Khoa học Nga, đã nói rất đúng
“Pháp luật không thể có nếu như
không có nhân quyền, cũng như không thể có nhân quyền mà không có pháp luật
hoặc đứng ngoài pháp luật”.
Ở Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ
15, Lê Lợi đã từng giáo huấn:
“Từ thuở xa xưa, muốn cai quản
quốc gia phải có pháp luật. Không có luật thì nhà nước sẽ loạn”.
Tiếc rằng, hơn nửa thế kỷ qua
chúng ta đã coi thường vai trò của luật pháp nếu không muốn nói rằng đã bãi bỏ
luật pháp với ý đồ lợi dụng chuyên chính vô sản để cai trị đất nước. Tiến sỹ
luật học Nguyễn Hữu Liêm khẳng định:
“Thực tế của xã hội Việt Nam
vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này là sự vắng mặt của luật pháp và sự
sụp đổ của giá trị đạo đức cổ truyền. Dân chúng Việt Nam đang sống trong cảm
nhận dân tộc mơ hồ nhưng không có nền tảng ý thức công dân”. (6)
Ông nêu nhận xét
“Lịch sử chiến tranh Việt Nam
là một chuỗi dài tiêu cực hóa cái tinh thần công dân cần thiết cho một thể chế
và xã hội pháp trị. Tranh chấp và bạo lực, bạo động đã chỉ tạo nên những con
người ‘can trường’, ‘quyết tử’ nhưng không kiên nhẫn, thiếu bình thản, thiếu
sức mạnh nội tâm về lẽ phải và công lý, thiếu tính hòa giải và rộng mở”.
Đấy là những nhận xét đúng.
Suốt mấy thập kỷ cuồng bạo, khi cần kích thích mọi người cùng say máu chiến
thắng người ta đã tung hô lên những khẩu lệnh cực kỳ phi nhân tính:
“Yêu xe như con, quý xăng như
máu!”,
“Súng là vợ, đạn là con!”,
“Cuộc đời đẹp nhất là ở nơi
trận tuyến” v.v…
Trời ơi! máu người sao có thể
đem ví với xăng?! Vợ, con sao lại chỉ được coi như chiếc xe vận tải, như súng,
như đạn?! Dù có giỏi biện lý đến đâu, nếu thực sự bình tâm lắng lại suy tư với
con người chân chính, người ta không thể nào không bàng hoàng và lợm giọng.
Cứ cái đà ấy mà xốc tới thì ai
đứng ra thuyết giảng về nhân quyền đều dứt khoát bị tước bỏ quyền sống.
Có cái đà ấy người ta mới dễ
dàng “phát động quần chúng” đốt sách đi, treo ngược thầy giáo lên cột
đình để “đấu tranh chính trị“. Và, vợ mới hùng hổ dạng chân giữa bà con
thôn xã mà đấu tố chồng; con mới đứng lên lăng nhục và đốt râu cha trong cải
cách ruộng đất.
Có cái đà ấy thì khi cần hô hào
“chống xét lại” người ta mới sẵn sàng hùn nhau triệt hạ, đọa đày hàng trăm,
hàng nghìn người, kể cả những người cùng đứng tuyên thệ dưới ngọn cờ búa liềm.
Kể cả những người đã từng cùng nằm gai, nếm mật, vào sinh ra tử và đang được
phân công giữ trọng trách trong ban chấp hành trung ương, trong cương vị Bộ,
Thứ trưởng như: Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Vũ Đình Huỳnh v.v…
Chợt nhớ lại ngày nào, khi cần
lên án thực dân, đế quốc, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc từng dõng dạc tố cáo
trước thế giới:
“Bất kỳ người bản xứ nào có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét xử”.
Mỉa mai thay, chỉ sau đó không
bao lâu người ta lại thực hiện đúng cái điều này:
“Bất kỳ người bản xứ nào có tư
tưởng không xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét
xử!”.
Những khẩu lệnh phi nhân tính
ấy, những chủ trương không ngần ngại bỏ qua pháp luật để chà đạp lên nhân quyền
như vậy còn di họa cho đến ngày nay khi chỉ vì những xung đột nhỏ, những mâu
thuẫn quyền lợi rất không đáng kể, người ta vẫn đang tâm cầm dao róc xương bạn
bè, xẻ thịt vợ, băm nát mặt cha đẻ v.v…
Không phải vô cớ mà Tuyên ngôn
về Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1789 đã phải cảnh báo
“Sự không hiểu biết, sự lãng
quên hay sự coi thường quyền con người là những nguyên nhân duy nhất của những
nỗi bất hạnh công cộng, của tệ hủ bại của các chính phủ”.
Hàng núi xương và cả sông máu
của mấy triệu người Việt Nam đã đổ xuống cho lời hiệu triệu thiêng liêng “Không
có gì quý hơn độc lập tự do“. Nhưng có độc lập rồi mà luật pháp không được
trọng thì làm sao bảo đảm được công lý, làm sao để người dân Việt Nam có tự do.
Bởi vì, như John Locke đã xác quyết
“Mặc dù những lời lý giải có
thể giả dối đến đâu, mục đích của luật vẫn là không thủ tiêu và hạn chế mà là
bảo toàn và mở rộng tự do… Nơi nào không có luật, nơi đó cũng không có tự do”.
Phải chăng vì vậy mà chính chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dự cảm:
“…nếu nước được độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”.
Lý Đông A, một trong những nhà
tư tưởng yêu nước chủ trương thuyết Duy Tân ở Việt Nam cũng từng suy tưởng:
“Quốc gia với dân tộc chỉ là
một khái niệm, một tên gọi rỗng không nếu không sung thực cho nó một thực thể ở
bên trong”.
Ông cho rằng “Quốc gia hay dân
tộc chỉ là hư danh” mà điều quan trọng là phải kiến tạo cho được
“Cái sinh mệnh thực thể của
giống nòi và toàn dân hướng theo một lý tưởng và chính nghĩa”.
Mấy năm gần đây, Quốc hội Việt
Nam đã chú tâm và có thành tích khá là đã xây dựng gấp gáp được một số bộ luật,
trong đó có những bộ luật quan trọng liên quan đến nhân quyền. Tuy nhiên, soạn
thảo các bộ luật là điều cần thiết nhưng giáo dục và phổ biến luật pháp cũng là
yêu cầu không thể không thực hiện đối với toàn xã hội. Thực thi pháp luật càng
có ý nghĩa quan trọng hơn.
Thật là tồi tệ khi thực tế cho
thấy rằng trước khi thi hành luật tố tụng hình sự, ở nước ta, trong số những
người bị bắt giam chỉ có chừng 30% được đưa ra xét xử. Bảy mươi phần trăm còn
lại phần đông là bị bắt oan. Lúc đó, tỷ lệ số người bị bắt khẩn cấp một cách vô
tội vạ chiếm tới 90%. Sau khi thi hành luật tố tụng hình sự, số người bị bắt
khẩn cấp năm 1989 giảm xuống được khoảng 22% nhưng cho đến nay, riêng năm 1996
vẫn còn tới trên dưới 500 người bị bắt oan.
Nhà nước pháp quyền phải là
“nhà nước phục tùng pháp luật”, hay có thể nói, nhà nước pháp quyền là nhà nước
ban hành pháp luật, tuân thủ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhưng,
biết đến bao giờ nhân dân Việt Nam mới được sống trong tinh thần công lý của
nhà nước pháp quyền khi mà ngay cả các cơ quan công quyền cũng chưa hiểu hết
hoặc cố tình không làm theo pháp luật; khi mà vẫn tồn tại những phiên tòa lập
lờ, công khai trá hình, có xử mà không có xét như các phiên tòa xử Hoàng Minh
Chính, Đỗ Trung Hiếu, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang!
Không cần để tâm gì đến những
quyền đã được ghi trong điều 17 của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền
1948:
“Mỗi người sống riêng một mình
hay trong tập thể, có quyền sở hữu tài sản. Không ai phải bị tước đoạt sở hữu
của mình một cách tùy tiện”,
những năm tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa, chúng ta đã không những chỉ thẳng tay truy quét tư sản mà còn
hăng hái quyết tâm tiêu diệt “công thương nghiệp tư bản tư doanh“. Trong
các hội nghị Trung ương đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 15 – 16, chúng ta đã
từng chăm chú nghe báo cáo một cách hoan hỉ
“Nền kinh tế miền Bắc từ chỗ có
nhiều thành phần, về cơ bản, đã trở thành một nền kinh tế thuần nhất với hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”!
May sao, mãi đến gần đây chúng
ta mới kịp sửa sai và đã chịu ghi vào Hiến pháp
“Nhà nước phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường… Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân… ” (điều 15)
Chỉ riêng việc nhận thức ra
được và dám từ bỏ cơ chế sai lạc của kinh tế xã hội chủ nghĩa để dấn thân vào
kinh tế thị trường đã cho phép chúng ta giải quyết tốt hơn những vấn đề nhân
quyền trong lĩnh vực kinh tế – xã hội. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho con
người được bình đẳng về kinh tế. Trong kinh tế thị trường, mỗi người vừa là kẻ
mua vừa là người bán, mỗi người đều trong tư thế cạnh tranh ngang nhau. Không
có đặc quyền nào lũng đoạn được quy luật giá trị trong việc chi phối cơ sở kinh
tế của xã hội bởi vì ở đây vị trí từng người tùy thuộc vào chỗ họ đáp ứng và
thực hiện quy luật giá trị đến mức nào. Quy luật đó đưa người này lên, dìm kẻ
kia xuống không có sự nhân nhượng nào. Những ý đồ tạo nên các quy định pháp lý
cho đặc quyền của nhóm người này hay đảng phái kia đều sẽ bị quy luật kinh tế
thị trường vô hiệu hóa.
Để tạo điều kiện cho quy luật
kinh tế thị trường nhanh chóng phát huy mặt tích cực của nó trong đời sống xã
hội, chính phủ cần nhanh chóng chuyển từ chức năng chỉ đạo các chủ thể kinh tế
thông qua các bộ và ủy ban nhân dân địa phương sang chỉ đạo chủ yếu qua các cơ quan
thuế, tòa án, bằng hệ thống pháp luật; nhanh chóng tách các hoạt động hành
chính có tính chất quản lý khỏi các hoạt động hành chính có tính chất tài phán
nhằm giảm thiểu tình trạng thiếu dân chủ, lạm quyền, ức hiếp quần chúng thường
xảy ra ở các cơ quan hành chính, quản lý chỉ đạo.
Dẫu sao cũng phải thấy rằng sau
những năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta đã giải quyết khá thành công
nhiều yêu cầu của các quyền kinh tế cho nhân dân trong khi các quyền thuộc lĩnh
vực dân sự – chính trị vẫn còn rất nhiều bức bối. Cần gấp rút sửa đổi một cách
nghiêm túc Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Tổ chức Quốc hội theo hướng
hiện đại và dân chủ thật. Xóa bỏ tình trạng “Đảng cử, dân bầu” và những thủ
đoạn sắp xếp nhân sự để gài bẫy hoặc dồn ép lá phiếu của nhân dân. Thực sự tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội cho nhân
dân. Đừng láo xược quy kết trình độ dân trí thấp cho một dân tộc đã được những
dân tộc có dân trí hàng đầu trên thế giới nể trọng khi cần ngụy biện quanh co để
hạn chế các quyền tự do chính trị.
Mục tiêu tối thượng của cách
mạng phải là nhân quyền chứ không phải chỉ là cái mẫu chủ quyền quốc gia mỏng
manh. Đừng huyễn hoặc, dương dương tự đắc để nhấm nháp mãi với những chiến công
năm xưa. Những nhu cầu muôn thuở và hiện đại của nhân quyền đòi hỏi mỗi đảng,
mỗi chính phủ, mỗi cá nhân đều phải vươn tới, cải tạo, thậm chí lột xác nếu còn
muốn xứng đáng ở vị trí lãnh đạo.
Hãy nghe lời phán bảo từ giữa
thế kỷ trước:
“Các chế độ chính trị lỗi thời
đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng bởi vì cơ chế quyền lực của nó đã biến
ước vọng tự do của con người thành ảo vọng. Sở dĩ chế độ này mang bản chất bi
thảm là vì nó tự buộc cho mình một nội dung hãnh tiến vô vọng. Hễ cái chế độ
này vẫn ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, thì chính tự
bản chất của nó là một lỗi lầm lịch sử… Chế độ này là vở hài kịch to lớn của
thế giới mà tất cả những anh hùng của nó đều đã bị khai tử. Lịch sử tiến bước
và sẽ không bỏ sót một ai. Nó sẽ đi qua những sân khấu mà chung cuộc sẽ vất bỏ
những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa mới
bước qua là cả một vở bi hài kịch khủng khiếp”. (7)
Việt Nam đã từng dõng dạc mở
đầu “Tuyên ngôn Độc lập” của mình bằng những chân lý phổ quát của nhân
quyền. Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc. Việt Nam đã ký kết tham gia
hoặc phê chuẩn nhiều công ước liên quan đến nhân quyền như: Công ước về các
Quyền Chính trị và Dân sự, Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa,
Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc
tế về Quyền trẻ em, Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt chủng tộc,
Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước quốc tế về loại trừ
và trừng phạt tội ác Apartheid. Việt Nam đã tuyên bố:
“Các nguyên tắc cơ bản trong
các văn kiện quốc tế đó là những giá trị chung của nhân loại mà chúng ta cần
bảo vệ”. (8)
Việt Nam đang tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Việt Nam có thể sẽ Hóa Rồng nhưng, trước hết và quan
trọng hơn, Việt Nam nhất định phải phấn đấu vì những giá trị chung thiêng liêng
đó. Bởi vì, đấy chính là khát vọng ngàn đời của nhân loại, của nhân dân Việt
Nam.
Hà Nội 10 tháng 12 năm 1996
Nguyễn Thanh Giang
Chú Thích:
1-
Lý Quang Diệu – Trả lời phỏng vấn “Tuần báo Thời đại“, ngày 14/6/1993.
2-
Jan Martenson – “Liên Hợp Quốc và quyền con người hôm nay và ngày mai“.
3-
Lang Yihuai – “Thực tế nhân quyền trong xã hội XHCN và cuộc đấu tranh vì
nhân quyền trên thế giới“.
4-
Chen Jinda – “Chế độ xã hội và nhân quyền“, báo Cầu Thị – 1992.
5-
Penovski N. – “Hiện thực mới trên thế giới và quyền con người“.
6-
Nguyễn Hữu Liêm – “Dân chủ pháp trị“.
7-
Các Mác – “Góp phần phê phán triết học Heghen“.
8-
Báo Nhân Dân ngày 18/6/1993.
No comments:
Post a Comment