Ngô Mai Hương - DienDanCTM
06:49 - 07/12/2013
(để tạ ơn các bằng hữu Úc châu nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2013)
Và khởi đầu của mọi khởi đầu vẫn là con người. Là giành lại chính mình -
giành lại cuộc sống con người đúng nghĩa của chính mình. Tôi trộm nghĩ Kiến
nghị 72, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam, ... đang
là những đấu trường để mỗi người dân Việt từng bước dài quay lại điểm khởi đầu
danh dự ấy. Chúng ta hãy cùng nhau chứng tỏ với thế giới rằng người dân Việt
Nam đang khao khát “được sống như một con người” mãnh liệt đến dường nào.
*
Tôi rời Cali vào những ngày trời chớm lạnh và đến Úc
Châu khi mùa hè vừa mới bắt đầu. Chuyến đi như là một cuộc trở về, trở về
tới điểm khởi đầu. Mỗi người đều có điểm khởi đầu của mình. Điểm
khởi đầu của tôi là một buổi chiều đầy mây tím, khi mặt trời chìm xuống qua đám
lau sậy, khi tôi còn ngơ ngác trước hướng đi của tương lai, và lúc đó cũng là
lúc chiếc ghe nhỏ đã lặng lẽ vào vùng nước lợ, chỗ giao tiếp của giòng sông và
biển. Rời quê hương ở cái tuổi vừa có ý thức, tôi cũng như bao nhiêu người
khác, có ai không từng đứng ở mũi tàu tha thiết nhìn lại hướng quê nhà khi biển
đã mênh mông một màu xám trắng!
Ở Úc, tôi đã gặp lại những thuyền nhân, gặp lại
chính mình của ba mươi năm về trước, những bắt gặp bất ngờ làm mình xúc
động. Tôi có cảm giác như những thuyền nhân này chưa từng bỏ quên lời hứa
của họ trên bến sông ngày nào. Tấm lòng của những người Việt ở đây
đối với quê hương có cái gì đó làm mình rưng rưng, nó tha thiết và trong sáng
quá! Tha thiết và trong sáng đến mức độ tôi có cảm tưởng như những đòn ly gián
của cộng sản sẽ không, và khó có thể làm vẩn đục được các cộng đồng người Việt
ở đất nước này.
***
Tôi đứng trên ngã tư đường William và Brisbane nơi
tượng đài thuyền nhân Việt Nam của tiểu bang Tây Úc vừa được khánh thành một
tháng trước. Nếu xuất phát từ điểm tôi đứng, con đường sẽ dẫn thẳng về
Việt Nam. Bỗng dưng tôi nhớ hai câu thơ cuối trong bài Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu do Ngô Tất Tố dịch: “Gần xa chiều xuống đâu quê quán?/đừng giục
cơn sầu nữa sóng ơi!”
Nhìn hình tượng con tàu mong manh trên ngọn sóng,
dáng dấp của những đoàn người vượt chết ra đi, ai mà không xốn xang! Mãi
cho đến tận bây giờ, tôi vẫn thường tránh không nghe những câu chuyện về vượt
biên. Có lẽ vì chuyện xảy ra trong thế hệ của mình, nó gần gũi quá, những
đau thương nó thật quá! Những thế hệ sau này, khi nhìn những tượng đài
thuyền nhân chắc cũng không thể nào hình dung hết được những gian nan mà cha mẹ
họ đã trải qua. Tôi đã được đi thăm hai tượng đài một ở Perth, và một ở
Brisbane. Tôi nghĩ nếu như hai tấm Bia Tỵ Nạn trên đảo Galang và Bidong
không bị CSVN với tay qua giật sập một cách thảm thương, có lẽ không có nhiều
tượng đài thuyền nhân được xây dựng ở khắp nơi trên thế giới như ngày hôm
nay. Bidong và Galang là hai nơi tạm trú của người Việt trong khi chờ đợi
để được đi định cư tại các nước khác. Người Việt ở hai nơi này đã
dựng tấm Bia Tỵ Nạn ghi dấu đoạn đường họ đi qua và để tưởng nhớ những người đã
bỏ mình trên đoạn đường tìm tự do. Giật sập hai Bia Tỵ Nạn ở Bidong và
Galang, CSVN đã không thể phá huỷ được nó mà ngược lại.
Rời quê hương trên những con tàu monh manh hơn ba
mươi năm trước, người Việt vẫn chưa từng lìa bỏ quê hương của mình. Tôi đã
ghé Adelaide, qua Perth, đến Brisbane để cảm nhận hết những tình cảm thật đơn
sơ mà thắm thiết của người Việt ở đây dành cho quê hương. Ngay tại hai
thành phố lớn là Melbourne và Sydney, cái gọi là “văn hoá vận” của VC vẫn chưa
với tay tới được. Chưa có một đài truyền hình nào, trong nước được quyền
phát sóng tại các nơi này. Nơi mà sự hiện diện của ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh
đã đem được cả ngàn người cùng đến, cùng nghe, và cùng hát với chị những bài
hát đấu tranh.
Cũng tại nơi chốn này, tôi tìm thấy mình lặng người
đi vì xúc động trước tấm lòng của một đồng bào. Chị chưa một lần tham dự
hết một buổi nói chuyện về tình hình đất nước của một tổ chức chính trị hay một
buổi gây quỹ nào. Người phụ nữ này đã cho tôi một bài học đáng giá nhất
trên đoạn đường đi của mình. Nói qua giòng nước mắt, chị bảo chị ít học,
chỉ biết đóng góp cái phần nhỏ bé của mình cho những người đang đấu tranh trong
nước. Chị cầu nguyện hằng đêm cho họ và mong sao Việt Nam đừng rơi vào
tay Trung Cộng. Cái phần đóng góp thường là không minh danh, mà chị gọi
là “nhỏ bé” đó, là một số tiền khá lớn, là cả một gia tài đối với chị.
Tôi tự hỏi làm sao các con của chị có thể hiểu được rằng cha mẹ chúng đã phải
mặc loại áo quần mua lại (second hand), dè xẻn từng đồng - để cho đi cái phần lớn
nhất của mình.
Đã nói chuyến đi Úc này cho tôi cái cảm giác như một
cuộc trở về! Như mình soi lại bóng mình trên những dấu chân của những
người đi trước. Đầu tiên, chúng tôi có chút việc phải dừng chân tại
Hawaii. Trong một ngày rảnh rang, một người bạn đã dẫn chúng tôi đi thăm
mộ của một chiến hữu ngày xưa. Ngôi mộ của anh nằm trên một đồi thông,
anh mất đi khi chỉ vừa qua tuổi bốn mươi. Nghe kể lại khi vừa đến Mỹ, vừa
ổn định gia đình, anh bảo vợ: “bây giờ bà lo làm nuôi con đi, để tôi lo việc
nước”. Anh mất sớm nên không hề biết rằng quê hương của anh nay đã
thành một khối đau thương từ Bắc chí Nam. Trời mưa, nhang bị ướt,
không cháy. Bạn tôi thắp một điếu thuốc đặt lên mộ bạn mình rồi lâm râm
khấn vái: “hôm nay tụi tôi đến thăm ông nè, ông hút thuốc đi rồi phù hộ cho
đất nước mình, phù hộ cho tụi tôi chân cứng đá mềm nghe ông”. Tôi cố
tình đứng lùi lại phía sau lưng hai người đàn ông, quay đi để giấu những giọt
nước mắt của mình.
Cũng ở tại Hawaii, cũng trong chuyến đi này, vô tình
tôi được chạm vào những kỷ vật rất riêng tư của một người ra đi vì đất nước
khác. Đó là những đồ vật được gởi lại của anh Nguyễn Trọng Hùng, người đi trong
chiến dịch Đông Tiến. Cái bóp da màu nâu cũ, một cây thánh giá, những lá
thư của các con của anh và vô số những hình ảnh hạnh phúc của gia đình
anh. Tôi chạm vào tình thương thiết tha của một người cha dành cho các
con và cảm nhận được hết cả sự hy sinh to lớn của anh.
Nhớ ơn và trả ơn là truyền thống ngàn đời của người
VN. Nguyễn Trọng Hùng đã trả ơn đất nước anh bằng tất cả những gì anh có
thể làm trong hoàn cảnh lúc đó, khi thế giới đã quay mặt với đất nước VN.
Khi mỗi chúng ta chỉ còn chính mình đối diện với những bất hạnh của quê
hương. Có người cho rằng việc làm của các anh là chuyện hoang tưởng, đội
đá vá trời. Để hiểu được một Trần Văn Bá, một Vũ Đình Khoa, một Nguyễn
Trọng Hùng có lẽ người ta phải quay lại từ điểm khởi đầu. Họ làm tôi nhớ
đến những công dân tuyệt vời của nước Pháp sau đệ nhị thế chiến. Câu
chuyện được nghe kể lại từ một người bạn - Nước Pháp lúc ấy gần như kiệt quệ vì
chiến tranh. Để xây dựng lại một đất nước từ đống gạch vụn đổ nát, đã có
32 gia đình thế phiệt, giàu có vào bậc nhất nước Pháp đã tình nguyện dâng hiến
tất cả tài sản của họ cho công cuộc canh tân nước Pháp. Sau đó, nghe nói
là trong số họ có những người đã hành nghề taxi để kiếm sống cho gia
đình. Họ hoà mình vào cuộc sống bình thường đầy khó khăn như tuyệt đại đa
số người dân Pháp vào lúc ấy. Họ chìm vào quên lãng, nhưng chính những
người tài xế taxi đó đã làm nước Pháp đi lên với niềm tự hào.
Một thống kê của năm 2013, do tổ chức quốc tế tranh
đấu cho nhân quyền mang tên Walkfree, đã xếp hạng Việt Nam đứng thứ 15 trên thế
giới về tổng số “nô lệ”. Một tiết lộ làm chúng ta giật mình và không khỏi
xót xa! Chiến tranh đã kết thúc hơn ba mươi năm mà đất nước vẫn nghèo đói khổ nhục.
Dân ta tiếng là cần cù, hiếu học, thông minh, nay trở thành những kẻ làm nô lệ,
tôi đòi cho xứ người. Theo ước đoán của Walkfree có vào khoảng từ 240
ngàn đến 260 ngàn người Việt đang làm “nô lệ” cả bên trong VN và ở tại các quốc
gia khác. Nếu quay lại từ điểm khởi đầu, khi cộng sản Bắc Việt vừa mới
chiếm được miền Nam, ta khó có thể tin được chỉ trong một thời gian kỷ lục mà
đất nước đi xuống như thế. Văn hoá xuống cấp, đạo đức suy đồi, và một dân
tộc ngày nào từng kiêu hãnh về truyền thống chống ngoại xâm nay trở nên khiếp
nhược đến thảm thương!
***
Mọi thứ dường như đã sụp đổ, đã chạm đáy. Những công
dân đầy nhân cách, mọi giá trị tốt đẹp dường như đã biến mất dưới mái nhà “xã
hội chủ nghĩa”. Như bao nhiêu dân tộc lầm đường khác, người dân VN đang phải
bắt đầu từ một kết thúc.
Và
khởi đầu của mọi khởi đầu vẫn là con người. Là giành lại chính mình - giành lại
cuộc sống con người đúng nghĩa của chính mình. Tôi trộm nghĩ
Kiến nghị 72, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam, ...
đang là những đấu trường để mỗi người dân Việt từng bước dài quay lại điểm khởi
đầu danh dự ấy. Chúng ta hãy cùng nhau chứng tỏ với thế giới rằng người dân
Việt Nam đang khao khát “được sống như một con người” mãnh liệt đến dường
nào./.
No comments:
Post a Comment