Nguyễn Trung Chính
Posted by diendanxahoidansu on 20/12/2013
Hội đồng Lý luận Trung ương là
cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các
vấn đề lý luận chính trị. Hội đồng này có 7 chủ tịch, phó chủ tịch và 32 thành
viên, tất cả có bằng Tiến sĩ. Phần lớn các bằng tiến sĩ này có lẽ do Học viện
Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (trước kia gọi là trường đảng
Nguyễn Ái Quốc) cấp, bằng tiến sĩ của TBT Nguyễn Phú Trọng là một thí dụ. Ngoài
ra Hội đồng này còn có 16 viện, tiêu tốn một tài sản lớn của nhân dân hàng năm.
Điều mà tôi không biết là
trường này có thuộc hệ thống Bộ Giáo dục và Đào tạo, là nơi có thẩm quyền cấp
phát văn bằng hay không. Hay vì Đảng lãnh đạo nên Đảng có quyền phân phát cái
gì tùy ý, chẳng hạn như chức Giáo sư, Phó Giáo sư….
Vừa qua GS.TS. Lê Hữu Nghĩa,
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, có hai bài viết được một số
người phản biện do vị trí hàng đầu của ông trong Hội đồng này. Bài “Phân
biệt quan điểm sai trái và ý kiến khác với quan điểm của Đảng” (*)
được Thông tấn xã VN và Tạp chí Cộng sản điện tử phổ biến ngày
12.12.2013, DĐXHDS đăng lại và bài tham luận “Tám đặc trưng Chủ nghĩa
Xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng” tại phiên họp sáng 14/1/2011 Đại hội
XI của Đảng, mà Thông tấn xã VN/Vietnam+ đăng lại ngày 16/12/2013.
Do thuộc về quan điểm lý luận
nên tôi không đề cập đến cá nhân tác giả mà chỉ dựa trên hai bài viết nói trên
để nhận định tình hình của đảng tiến hay lùi và những gì gọi là “Tám đặc
trưng…” có phải là đặc trưng, đặc sản thật hay là cóc ngồi đáy giếng.
Từ cán bộ, đảng viên tâm huyết đến… các thế lực thù địch,
cơ hội chính trị
Bài “Phân biệt quan điểm sai
trái và ý kiến khác với quan điểm của Đảng” phân biệt hai loại người: (những
dòng in nghiêng dưới đây là bút tích của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa).
1- Loại người có “trình độ nhận thức hạn chế…“.
Họ là ”những
cán bộ, đảng viên có ý kiến khác với đường lối của Đảng có thể do trình độ nhận
thức hạn chế, do phương pháp tư duy giản đơn, không biện chứng, do ngộ nhận
hoặc chịu ảnh hưởng nhất định của những quan điểm sai trái chứ không phải là
thế lực thù địch.
Do địa vị xã hội, lợi ích cụ thể khác nhau, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị khác nhau, kinh nghiệm thực tiễn khác nhau hoặc do thiếu thông tin, phương pháp tư duy giản đơn, siêu hình, nên không tránh khỏi có những ý kiến, cách tiếp cận khác với đường lối, quan điểm của Đảng”.
Do địa vị xã hội, lợi ích cụ thể khác nhau, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị khác nhau, kinh nghiệm thực tiễn khác nhau hoặc do thiếu thông tin, phương pháp tư duy giản đơn, siêu hình, nên không tránh khỏi có những ý kiến, cách tiếp cận khác với đường lối, quan điểm của Đảng”.
- Họ phải “Là cán bộ, đảng
viên, nếu có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng có thể
phản ánh lên cấp trên, cấp có thẩm quyền, có quyền bảo lưu ý kiến, hoặc trình
bày, thảo luận trong các hội thảo khoa học, hội nghị nội bộ chứ không được tùy
tiện phát tán trên các phương tiện thông tin đại chúng; đảng viên phải chấp
hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng
viên không được làm.”
2- Loại người thứ hai là những
người thuộc thế lực thù địch, cơ hội chính trị vì
“đả kích vào Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đả kích vào
chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, lái đất
nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa”
Trong loại này có mặt những
người “trước kia là cán bộ, đảng viên song bây giờ họ đã chuyển sang “trận
tuyến bên kia,” họ đã sám hối, trở cờ, trở thành thế lực thù địch.”
Dựa trên những định nghĩa của
GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, chúng ta thử điểm lại một số nhân vật có tiếng xem họ
thuộc vào thành phần nào.
1- Nguyễn Văn An, nguyên ủy
viên Bộ chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội.
Tháng 05/2011 và tháng
02/2013 Ông Nguyễn Văn An đã “tùy tiện phát tán trên các phương tiện thông
tin đại chúng” (Báo Tuần Việt Nam) những bài “Nguyên Chủ tịch Quốc hội bàn
về phương thức cầm quyền của Đảng”, “Ba vấn đề cốt lõi khi sửa Hiến pháp“, “Bàn
chuyện sửa Hiến pháp” trong đó ông phản bác:
”Nếu Đảng làm thay, quyết
thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta sẽ
có cảm giác Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là
vua tập thể thời CH XHCN”. “Dân làm chủ thì dân phải quyết, quyết trực tiếp
và quyết gián tiếp thông qua cơ quan đại diện. Song về bản chất là dân quyết
chứ không phải vua quyết, cũng không phải đảng quyết.”. “Quốc hội vừa lập hiến,
vừa lập pháp, người ta gọi như thế là vừa đá bóng, vừa thổi còi.“
Ông Nguyễn Văn An đã “đả kích vào Đảng, đả kích vào chế độ xã hội chủ nghĩa” và đăng trên “phương tiện thông tin đại chúng;” không “chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương về những điều đảng viên không được làm.”. Nếu vậy theo Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương thì ông Nguyễn Văn An thuộc loại “thế lực thù địch”, “cơ hội chính trị”. Có gia giảm lắm thì ông An cũng thuộc vào loại có “trình độ nhận thức hạn chế…“.
Ông Nguyễn Văn An đã “đả kích vào Đảng, đả kích vào chế độ xã hội chủ nghĩa” và đăng trên “phương tiện thông tin đại chúng;” không “chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương về những điều đảng viên không được làm.”. Nếu vậy theo Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương thì ông Nguyễn Văn An thuộc loại “thế lực thù địch”, “cơ hội chính trị”. Có gia giảm lắm thì ông An cũng thuộc vào loại có “trình độ nhận thức hạn chế…“.
2 – Thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh với hơn 30 bài viết trong đó phần lớn phản bác đường lối Đảng trong việc
giữ gìn biển đảo, về vấn đề ruộng đất…
Những phản bác của Thiếu tướng
không được báo “lề đảng” nào đăng, Thiếu tướng phải gửi cho trang mạng Bauxite
VN, nhờ đó mà mọi người đều biết và hâm mộ Thiếu tướng. Phó Chủ tịch Hội
đồng Lý luận Trung ương liệt Thiếu tướng vào loại nào? “lực lượng thù địch“,
“Cơ hội chính trị” hay “trình độ nhận thức hạn chế…“?
Còn nhiều người nữa nhưng tôi
muốn tạm ngừng ở đây để chỉ muốn nói rằng: ở vị trí là Phó Chủ tịch Hội đồng Lý
luận Trung ương, người ta chờ đợi ông Tiến sĩ lý luận về đường lối, về triết lý
trên chủ nghĩa mà ông theo đuổi, khác với việc lập đi lập lại những tín điều mà
ông tin, nhưng người khác đã hết tin.
Thay vì viết một bài có trình
độ lý luận thì ông lại đi viết một “cẩm nang” để dạy cho ngành công an, và các
dư luận viên được trả tiền để thực hiện lý tưởng cộng sản.
Từ đặc trưng, đặc sản đến Cóc ngồi đáy giếng
Tại phiên họp sáng 14/1/2011
Đại hội XI của Đảng, TS Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học
viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trình bày tham luận “Những
đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng”.
Sau đây là 8 đặc trưng đã được
xem là lý luận có tính đột phá mà Thông tấn xã VN /Vietnam+ đã đăng lại
ngày 16/12/2013.
- Đặc trưng 1: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
– Đặc trưng 2: do nhân dân làm chủ
– Đặc trưng 3: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
– Đặc trưng 4: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
– Đặc trưng 5: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
– Đặc trưng 6: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
– Đặc trưng 7: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
– Đặc trưng 8: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
– Đặc trưng 2: do nhân dân làm chủ
– Đặc trưng 3: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
– Đặc trưng 4: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
– Đặc trưng 5: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
– Đặc trưng 6: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
– Đặc trưng 7: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
– Đặc trưng 8: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất
bản khoa học xã hội định nghĩa từ “đặc trưng” là “dấu hiệu đặc biệt (thí dụ Đặc
trưng của văn học vô sản)”, đã gọi là đặc biệt có nghĩa là chỉ nơi này mới có.
Thế nhưng, ở các nước tiền tiến
trong đó con người sống tự do hạnh phúc đều có các “đặc trưng” 1/2/3/4/5/6/8.
Mà họ có thật, không cần dao to búa lớn, khẩu hiệu ồn ào. Chỉ cần nhìn vào việc
xuất khẩu lao động của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đến Nhật, Hàn
Quốc… cũng đủ chứng minh là các nước này có thật những điều 1/2/3/4/5/6/8 nên
lao động Việt Nam mới chen chúc để được đi làm osin nước ngoài.
Riêng Đặc trưng 3: “có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.” thì có một số nước, tùy tình hình
và thời điểm, cũng có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Thí
dụ như nước Pháp, ngành đường sắt là ngành công ích xã hội nên hiện vẫn do nhà
nước sở hữu. Trước kia ở Pháp cũng có một số ngành khác trong diện quốc hữu hóa
nhưng bây giờ đã giải tư (chứ không phải “xã hội hóa” là một từ loạn ngôn của
nhà nước Việt Nam để bắt dân chi trả).
Còn Đặc trưng 7: “có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo” cũng chẳng đặc trưng một chút nào cả vì
Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba đều có như thế.
Tại sao các nước khác, từ chối
Đặc trưng 7, đã đạt được “nước giàu dân mạnh xã hội công bằng và văn minh”
trong khi Việt Nam thì ở thành phố HCM (Thành phố mang tên Bác) mỗi khi mưa to,
hoặc có triều cường thì người dân phải lội nước? Ở các nước khác họa hoằn mới
có một vụ án tham nhũng còn ở Việt Nam hơn 10 vụ đại án tham nhũng sao mà khó
xử đến thế? Khiếu kiện đất đai, dân oan ở các nước khác rất ít trong khi ở Việt
Nam đầy rẫy? Ở các nước khác không có “lực lượng thù địch“, không có “chống
tự diễn biến“, “tự chuyển hóa” còn ở Việt Nam từ hơn 30 năm nay bao
giờ các đại hội đảng CS cũng đề cập trong văn kiện?
Người bình thường cũng có thể
diễn suy ra rằng trăm sự chậm tiến ở đất nước ta là do cái Đặc trưng 7: “có
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. “
Hai năm rõ mười như thế mà Hội
đồng lý luận Trung ương vẫn u mê bảo vệ cái đặc trưng số 7 này để thất bại tiếp
nối thất bại, đất nước ngày càng tụt hậu, dân tình nghèo đói hỗn loạn.
Trong khi Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã nói sự thật như đùa rằng phải 100 năm nữa mới đạt được Xã hội chủ
nghĩa, thế mà Hội đồng lý luận Trung ương vẫn dùng ngôn ngữ con vẹt: “Đối
với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự.“.!
Không ai cho phép Đảng cứ đem
nhân dân làm vật thí nghiệm mãi được.
Kết luận
Dù nói ngoa đến mức thành tinh,
nhưng khi Đảng mất hết chính nghĩa thì Đảng chỉ có lùi, và khi lùi thì phải cố
thủ (cố thủ bằng việc cưỡng bức Hiến pháp vừa qua) để duy trì cái ghế làm vua
của mình. Đó là tình trạng của Đảng hiện nay.
Nói Đảng lùi, chúng tôi có
chứng cớ:
Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) của đảng đã xác định “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch là một trong bốn nguy cơ.
Đại hội VIII của đảng vẫn xác
định chống “diễn biến hòa bình”.
Đại hội IX của đảng vẫn xác
định chống “diễn biến hòa bình”.
Đại hội X của đảng đã yêu cầu làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.”
Đại hội XI của đảng tiếp tục khẳng định “kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”
Đại hội X của đảng đã yêu cầu làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.”
Đại hội XI của đảng tiếp tục khẳng định “kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”
Như thế là từ đại hội VII đến
đại hội XI từ chống “diễn biến hòa bình” đảng lại phải đối phó với “tự diễn biến,”
“tự chuyển hóa trong nội bộ ta;”.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
X) đã ghi: “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục
có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước. Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả trong những lực
lượng nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ, đã phát sinh một số vấn đề tư
tưởng, tâm trạng bức xúc, đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội”.
Trước kia chỉ có “các thế
lực thù địch” ngoài nước, bây giờ thì ”các thế lực thù địch trong
và ngoài nước cấu kết với nhau”.
Như thế rõ ràng Đảng đang lùi !
Tôi có cảm tưởng ông Phó Chủ
tịch Hội đồng Lý luận Trung ương trả bài thuộc lòng mà không hiểu gì khi nói
rằng: “Những ý tưởng mới, sáng kiến mới thường vượt khỏi giới hạn của nhận
thức cũ, vượt khỏi những chủ trương, quan điểm hiện hành khi đó, có khi về sau
này mới được thực tiễn chấp nhận. Sự hình thành đường lối đổi mới đã cho chúng
ta thấy như vậy. Nếu không có “khoán chui” thì không có “khoán 100,” “khoán 10”
và rộng ra là đường lối đổi mới sản xuất nông nghiệp, đổi mới đất nước.”
Đã đã nhắc tới công lao
của bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc (tên thật là Kim Văn Nguộc)
thì cũng nên nói rõ hơn. Ông Kim Ngọc, không chịu được sự nghèo đói cơ cực
của dân, nên khởi xướng việc “khoán hộ” trong nông nghiệp vào những năm
60. Thời kỳ đó được xem là bác bỏ Chủ nghĩa xã hội, các nhân vật cấp cao giáo
điều trong đảng Cộng Sản ra sức kìm hãm và hạn chế. Kim Ngọc phải làm
kiểm điểm và tự nhận “có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ” sau khi có chỉ
đạo trực tiếp của Trường Chinh, lúc bấy giờ là Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng. Từ
đó tuy không bị mất chức nhưng ông thất sủng, phải đến 30 năm sau ngày mất ông
mới được truy điệu.
“Đường lối đổi mới sản xuất
nông nghiệp, đổi mới đất nước“ của Đảng chỉ là sự theo đuôi cái
gọi là “sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ” trước kia của ông Kim Ngọc.
Nhắc lại như thế để nói với ông
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương rằng con đường mà các ông gọi là của
“các lực lượng thù địch” thực tế là con đường dẫn đến một đất nước giàu mạnh,
trong đó con người được tôn trọng đến tột cùng mà thế giới đã chứng minh là
hiệu quả. Con đường này không có gì mới đối với thế giới văn minh, nhưng
lại rất mới đối với những người cứ khăng khăng “Đối với dân tộc Việt Nam,
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh thật sự“. Ông Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung
ương đã biết nói “sáng kiến mới thường vượt khỏi giới hạn của nhận thức cũ,
vượt khỏi những chủ trương, quan điểm hiện hành” thì tại sao không đối
thoại tìm hiểu mà lúc nào các ông cũng kêu chống, chống, chống…? . Tại sao nói
và làm của các ông cứ ngược nhau mãi thế?
Chúng tôi không chống đảng nào,
chỉ chống những tập đoàn làm mục nát đất nước, chúng tôi phân biệt rất rõ: đất
nước và nhân dân còn đảng chỉ là một công cụ điều hành không hơn không kém.
Công cụ không còn phù hợp thì phải biết vứt bỏ. Đùng xem công cụ như một tôn
giáo.
Để kết luận chúng tôi xin phép
trích một đoạn trong bài Phép thử giữa nhiệm kỳ của tác giả Đinh
Duy Hòa đăng trên VietNamNet 16/12/2013 để chứng tỏ sự cố thủ của
đảng sộng sản hiện nay. Tôi tin rằng tác giả này sẽ bị ông Phó Chủ tịch Hội
đồng Lý luận Trung ương liệt vào loại “trình độ nhận thức hạn chế…“?
“Biết là 80% các vụ khiếu kiện
liên quan đến đất đai, nhưng thể chế đất đai về cơ bản không thay đổi, kể từ
Hiến pháp. Biết là doanh nghiệp nhà nước quá nhiều, là làm ăn thua lỗ, nhưng
thể chế về doanh nghiệp nhà nước không có thay đổi lớn.
Biết là tham nhũng trong bộ máy là lớn, tác hại khôn
lường, đe dọa sự tồn vong của chế độ, nhưng công tác phòng, chống tham nhũng
mang lại kết quả rất hạn chế. Thế thì lãnh đạo xã hội ra sao. Nói ngắn gọn, để
lãnh đạo phải có năng lực, uy tín và tạo dựng được niềm tin trong xã hội. Hơn
lúc nào hết, Đảng đang rất cần và phải bằng mọi cách có được những cái đó. Đảng
phải nhìn thẳng vào sự thật. Đây là thời kỳ giống như trước Đại hội VI. Cuộc
sống không phải tươi sáng, thanh bình như trong các báo cáo, tường trình chính
thức.”
Nguyễn Trung Chính
19/12/2013
—-
No comments:
Post a Comment