Đỗ Kim Thêm
Người dịch: BT
Những hậu quả của tình trạng
quản lý yếu kém ở Việt Nam đã đến mức chế độ cai trị và cấu trúc của bản hiến
pháp cần phải được thay đổi về cơ bản. Nhiều cuộc thảo luận đã tập trung vào
một lộ trình dẫn đến dân chủ, cơ chế thị trường định hướng dẫn xã hội chủ
nghĩa, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Thách thức là rất lớn, và bất cứ
chuyển biến nào cũng sẽ phải tùy thuộc hoàn toàn vào ý chí chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Các nhà quan sát đã và đang chờ đợi để xem
liệu có hay không bất cứ sự thay đổi nào trong giới tinh hoa của đảng.
Trong bản báo cáo mới nhất của
mình vào tháng 10 năm 2013, ĐCSVN đã bóp chết mọi hy vọng lạc quan. Đảng vẫn
khăng khăng rằng địa vị lãnh đạo đất nước của mình không thể bị thay đổi; bất
kỳ cải cách nào về hiến pháp mà không giữ nguyên vai trò cầm quyền của Đảng thì
đều là không thể tưởng tượng được.
Những hy vọng của công chúng về
bất cứ sự tái sinh nào cho bản hiến pháp đều là một giấc mơ không thể có trên
thực tế. Quốc hội sẽ phê chuẩn bản hiến pháp mới vào tháng 11 năm 2013, và nó
sẽ là một bản hiến pháp do ĐCSVN áp đặt.
Cuộc thảo luận về hiến pháp mới
đã được thực hiện theo kiểu từ trên xuống dưới. Kết quả chắc chắn sẽ là nỗi
thất vọng trong công chúng trước sự tồn tại dai dẳng của mô hình cũ, đặc biệt
là Điều 4, là thứ đem tới quyền lãnh đạo tối cao tuyệt đổi của ĐCSVN. Hiến pháp mới cũng sẽ cung
cấp cho ĐCSVN những lỗ hổng rộng lớn về pháp lý để từ đó tùy tiện diễn giải
theo ý mình. Có quá nhiều niềm phấn khích cho buổi bình minh của một thời đại
mới.
Trong khi đó, đối với các nhà
kinh tế, những mối nghi ngại là: hiến pháp mới có thể giải cứu được tình hình
kinh tế hiện tại hay không? Và đặc biệt là các nhà kinh tế làm thế nào để cho
điều đó xảy ra?
Nhìn chung ta có thể đồng ý
rằng kinh tế vĩ mô của Việt Nam sau những cải cách bắt đầu vào năm 1989 là rất
ấn tượng. Cho đến năm 2009, đã có một số thành công nổi bật. Không giống như
các nền kinh tế đi tiên phong cải cách ở các nước Đông Á, Việt Nam có lợi thế
của một kẻ đến sau, giúp tăng tốc tiến trình đổi mới và cho phép nước này tiếp
nhận các bí quyết của nước khác và thuận lợi trong huy động vốn. Các nhà tài
trợ và đầu tư quốc tế cũng đã giúp sức.
Tuy nhiên , tốc độ tăng trưởng
đã chậm lại đáng kể từ năm 2011, và xem ra sẽ còn chậm hơn nữa. Việt Nam
đã và đang phải vật lộn với những thách thức của tiến trình rất cần thiết, đó
là buộc phải tái cân bằng cấu trúc nền kinh tế. Giống như Trung Quốc , nền kinh
tế nước này đang gặp phải khó khăn do bất ổn, mất cân bằng và thiếu tính bền
vững, được thể hiện trên tất cả những cái giá phải trả về xã hội và môi trường.
Xuất khẩu và sản xuất hàng hóa cũng đang suy giảm.
Tầng lớp tinh hoa của đảng cần
phải đáp ứng được trước tình hình đó bằng tầm nhìn định hướng lại nền kinh tế,
giữa bối cảnh bất ổn toàn cầu. Tất nhiên, việc đầu tư vẫn phải được tiếp tục là
động lực chính cho sự phát triển và đổi mới công nghệ, để có vốn giúp phát
triển công nghiệp . Thế nhưng các nhà hoạch định chính sách cũng cần phải xử lý
tình trạng xơ cứng, hậu quả của không chỉ từ các yếu tố bên ngoài và mang tính
chu kỳ, mà còn bởi sự mất cân bằng cấu trúc nội tại.
Về phần mình, chính phủ phải
trấn an nhà đầu tư rằng các quy định của pháp luật sẽ được nghiêm túc thực
hiện. Cũng còn cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục, chế độ
chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội, giúp nền kinh tế hướng tới tạo lên chuỗi
giá trị riêng của mình. Việc đánh giá chất lượng của tiến trình đổi mới, của
các cơ quan tổ chức và ý thức ganh đua sẽ đóng một vai trò quan trọng trong vấn
đề này.
Ngoài ra, có một thực tế được
lặp đi lặp lại như một điệp khúc là: Việt Nam không thể tái cân bằng chỉ trong
một đêm. Có một điều rõ ràng là doanh nghiệp nhà nước làm tăng thêm những rủi
ro mang tính hệ thống và sẽ không thoát khỏi quy luật của thị trường khi ngày
càng tham gia vào việc cản trở tiến trình cải cách. Đây có lẽ là ví dụ tốt nhất
về tình trạng trì độn của các công cụ chính sách, và chừng nào mà ĐCSVN vẫn tỏ
ra bất lực trong việc đối phó với tình trạng đó, thì tiến trình tăng trưởng vẫn
sẽ tiếp tục chậm chạp ở mức dưới 5%. Các ảnh hưởng lâu dài sẽ khó dự đoán hơn.
Nói rộng ra hơn, thì mô hình
của chủ nghĩa tư bản nhà nước cộng với thể chế độc đảng cầm quyền có những giới
hạn của nó, khi mà chính phủ đang tỏ ra không sẵn sàng chấp nhận việc cải cách
chính trị. Bộ Chính trị của đảng đã dùng những nỗ lực mạnh mẽ của mình để duy
trì nguyên trạng quyền lãnh đạo.
Và xã hội dân sự ở Việt Nam thì
sao? Liệu nó có thể giành được những gì mà giới chính trị và thị trường có được
hay không? Đến lúc này thì chưa thể biết được, thế nhưng những gì xã hội dân sự
có thể làm được là giúp cho người dân Việt Nam trong việc có được tiếng nói
riêng của mình, và bắt đầu cho một không khí thảo luận mạnh mẽ hơn trong công
chúng.
Sự cai trị của ĐCSVN sẽ không
thể kéo dài mãi mãi, và việc nhiều người dân tham gia vào công việc của đất
nước có thể giúp tạo điều kiện cho tiến trình chuyển đổi xã hội một cách ôn
hòa.
Đỗ Kim Thêm là tác giả của cuốn
The Buddhist Viewpoint on Contemporary Issues – Quan
điểm của Phật giáo về Các vấn đề hiện đại (NXB Hồng Đức, Việt Nam, 2012).
Bản tiếng Việt © Diễn đàn Xã hội Dân sự 2013
—-
* Cùng tác giả:
No comments:
Post a Comment