Cập nhật lần cuối ngày Thứ sáu, 22 Tháng 11 2013 12:49
Ngay trước khi tôi sắp lên đường đi thăm Ấn Độ một bạn
trẻ trong nước hỏi tôi trên Facebook: "Tại sao Ấn Độ có dân chủ mà lại
tụt hậu, nghèo đói, bất công, dơ bẩn, đàn ông hay hãm hiếp?". Tôi
không thể trả lời câu hỏi đó vì đối với tôi Ấn Độ là một thành công và tôi đang
cố gắng giải mã thành công đó, nghĩa là tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại thành công
dù trước đây mọi dự đoán đều rất bi quan?
Những gì mà trong tuổi thanh thiếu niên tôi nghe được về
Ấn Độ đều mô tả một đất nước kinh dị, nghèo khổ và dơ bẩn một cách huyền bí.
Trong thập niên 1960 khi du học tại Pháp tôi may mắn có một người bạn thân mà
cha mẹ là hai ông bà bác sĩ từng làm công tác nhân đạo nhiều năm tại Ấn Độ và
đã góp phần quyết định đẩy lùi bệnh hủi tại đây. Tôi lui tới thường xuyên gia đình
này và được coi như người nhà. Qua họ tôi cũng quen biết nhiều chuyên gia khác
về Ấn Độ. Những gì hai ông bà và các bạn họ nói cũng phù hợp với những gì có
thể đọc trong các sách và báo: Ấn Độ không có tương lai, người ta chỉ có thể vì lòng nhân đạo mà giúp
nó đỡ nghèo khổ chứ không thể giúp nó vươn lên. Ấn Độ có tất cả mọi khó
khăn mà một quốc gia có thể có và đều có ở mức độ nguy kịch. Nghèo khổ, dơ bẩn,
tham nhũng và bất công cùng cực, các bệnh truyền nhiễm lan tràn, con người bệnh
tật, mê tín dị đoan và bi quan yếm thế. Đã thế Ấn Độ lại không phải là một quốc
gia mà là cả một thế giới hỗn độn với gần 2000 ngôn ngữ và hơn 500 vùng dị biệt
xuất phát từ những chiến quốc cũ không có và cũng không muốn có quan hệ hợp tác
với nhau. Trong lòng một mình Ấn Độ có nhiều di biệt và tương phản hơn cả trong
phần còn lại của thế giới. Người Ấn Độ trong tuyệt đại đa số không biết đọc
biết viết và không nhìn nhau như đồng bào. Mẫu số chung của cái thế giới hỗn
tạp này chỉ là sự nghèo khổ, bệnh tật, dơ bẩn ngoài mức tưởng tượng. Ra ngoài
đường ở bất cứ thành phố nào người ta không thể không thấy những đoàn người hốc
hác vì đói trong đó có nhiều người đang chết đói. Một vấn đề nghiêm trọng khác
là nạn nhân mãn. Ấn Độ đã quá đông dân và mỗi năm vẫn thêm một số người tương
đương với dân số của cả nước Úc. Kết luận, Ấn Độ hoàn toàn tuyệt vọng. Những trí thức thân cộng,
rất đông đảo trong suốt thập niên 1960, đôi khi so sánh Ấn Độ và Trung Quốc để
bênh vực cho chủ nghĩa Mac-Lênin. Theo họ hai nước lớn này đã chọn hai con đường
khác nhau vào cùng một thời điểm và thực tế cho thấy là Trung Quốc đã hơn hẳn
Ấn Độ, điều này chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản. So sách này khập
khiễng bởi vì hai nước khởi hành từ hai mức độ quá khác nhau.
Thế rồi người ta càng ngày càng ít nói tới Ấn Độ. Chưa ca
tụng Ấn Độ nhưng cũng ít ai còn nói Ấn Độ là một trường hợp tuyệt vọng nữa. Tới gần ngưỡng cửa thế kỷ 21 Ấn
Độ được nhắc tới như là một thành công. Trong những năm gần đây không
còn ai phủ nhận Ấn Độ là một cường quốc đang lên và tư cách thành viên thường
trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ còn là vấn đề của một vài năm.
Không những thế, sự thành công của Ấn Độ lại rất lành
mạnh. Ấn Độ không "đi nước dưới" như Trung Quốc và hầu hết các
nước đang phát triển, nghĩa là khai thác nguồn nhân công rẻ để xuất khẩu quần
áo, giày dép và những sản phẩm kỹ thuật thấp. Ngược lại, Ấn Độ "đi
nước trên" và cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong những kỹ
thuật hiện đại: công nghệ thông tin, điện tử, sinh hóa, dược phẩm, kỹ nghệ ôtô,
hàng không v.v. Kinh tế Ấn Độ không quá phụ thuộc xuất khẩu vì thế không điêu
đứng trong bối cảnh toàn cầu khó khăn hiện nay; cũng không lạm dụng ngành xây
dựng nên không có trái bong bóng bất động sản như Trung Quốc và Việt Nam. Thu
nhập bình quân trên mỗi đầu người của Ấn Độ hiện đang tương đương với Việt Nam
và sẽ qua mặt Việt Nam trong năm tới. Từ một nước chết đói quanh năm Ấn Độ đã trở thành một
nước xuất cảng gạo. Nạn đói đã bị xóa bỏ cùng với nạn mù chữ. Tăng
trưởng kinh tế của Ấn Độ trong năm 2013 được uớc lượng là 4,8% theo đối lập và
trên 5% theo chính quyền. Con số này được coi là thấp do hậu quả của bối cảnh
kinh tế thế giới khó khăn nhưng vẫn là một tỷ lệ tăng trưởng mà nhiều nước mơ
ước. Cũng đừng quên là Ấn Độ là một nước dân chủ trong đó mọi vấn đề đều có thể
bàn cãi và mọi sự thực đều được phơi bày; tỷ lệ tăng trưởng 4,8% là một
tỷ lệ tăng trưởng đích thực trong khi những tỷ lệ tăng trưởng 5,5% hay 7% tại
Việt Nam và Trung Quốc chỉ là những con số ngụy tạo nhằm che giấu một thực tế suy thoái. Nền dân chủ của Ấn Độ ổn vững và ngày càng lành
mạnh hơn. Tôi đã có dịp nhận xét tại chỗ bởi vì tôi đến đó vào cao điểm của
cuộc tranh cử tại một số bang (đa số các bang của Ấn Độ có tầm vóc của một nước
trung bình). Các tranh cãi đã rất thẳng thắn và xây dựng, nghiêm chỉnh hơn cả
những cuộc tranh cử tại Pháp. Một vài vụ khủng bố rùng rợn (như tại Mumbai
tháng 11-2008 và tháng 7- 2011) và hiếp dâm, giết người đã gây ấn tượng mạnh và
khiến nhiều người quên rằng Ấn Độ là một trong những nước an ninh bậc nhất thế
giới. Tỷ lệ án mạng trên 100.000 dân chỉ hơi cao hơn Châu Âu và Hoa Kỳ và thấp
hẳn so với các nước đang phát triển, dù tỷ lệ cảnh sát/dân số rất thấp, chỉ
bằng một nửa Hoa Kỳ và Châu Âu và 1/3 Việt Nam và Trung Quốc. Chỉ số bất ổn
chính trị cũng tương đương với Hoa Kỳ và Châu Âu và thấp hơn hẳn Trung Quốc và
Nga. Xã hội Ấn Độ còn cần khắc phục nhiều tật bệnh lớn do lịch sử để lại, thí
dụ như đẳng cấp (caste), tham nhũng, vệ sinh v.v. nhưng đang cải tiến nhanh
chóng. Tại biên giới Népal các viên chức an ninh làm thủ tục cho chúng tôi một
cách nhanh chóng và bặt thiệp nhưng sau đó xin tiền típ ( khoảng 1 USD cho hai
người nhưng không cho cũng không sao). Tại bang Uttar Pradesh mà chúng tôi đi
qua một phụ nữ thuộc đẳng cấp paria (hạ tiện) đã đắc cử thống đốc; trong
hai hướng dẫn viên của tôi, một anh thuộc đẳng cấp Brahmin (đạo sĩ, đẳng cấp
cao quý nhất), một anh thuộc đẳng cấp Kshatriya (chiến binh, đẳng cấp thứ nhì)
trong khi nhiều người thuộc các đẳng cấp thấp hơn đã thành triệu phú hoặc giữ
những vai trò quan trọng trong chính quyền và các công ty. Phân biệt đẳng cấp
bị luật pháp nghiêm cấm và đang giảm sút nhanh chóng, dù vẫn còn tồn tại trong
xã hội. Vệ sinh vẫn còn là một vấn đề lớn. Tại Varanasi, bên bờ sông Hằng,
người ta vẫn còn thẩy tro thiêu xác người, đôi khi còn xương thịt chưa cháy
xong, cùng với quần áo xuống sông bên cạnh những người đang tắm và uống nước để
"rửa sạch tâm hồn" theo nghi thức tôn giáo. Áp lực nhân mãn vẫn còn
rất nặng nhưng cũng đang cải tiến; một anh hướng dẫn viên của tôi chỉ có một
con, anh kia có hai con. Họ cho biết tầng lớp trung lưu như họ, khoảng 300
triệu người, đang có khuynh hướng giới hạn số con cái. Môi trường Ấn Độ vẫn còn
là một vấn đề lớn nhưng đã có cải thiện và đàng nào cũng hơn xa Trung Quốc, bầu
trời còn tương đối trong xanh.
Nói chung Ấn Độ đã giải quyết được rất nhiều vấn đề tưởng
như không giải quyết được và đang trên đà giải quyết những vấn đề còn lại. Ấn
Độ đang tiến những bước nhanh chóng và vững chắc về một tương lai tươi sáng.
Phép mầu lớn nhất trong thế kỷ 20 đã là phép mầu Ấn Độ và có lẽ trong thế kỷ 21
cũng thế. Ấn Độ đã thành công và còn đang tiếp tục thành công.
Tại sao Ấn Độ đã thành công?
Lý do đầu tiên và
quan trọng nhất là dân chủ. Dân chủ cho phép
phơi bày những yếu kém và tố giác những sai phạm để sửa chữa. Dân chủ cho phép
đặt các vấn đề một cách đúng đắn và chọn lựa một cách đúng đắn những người
trách nhiệm. Dân chủ đã được thiết lập tại Ấn Độ trong những điều kiện cực kỳ
khó khăn về tất cả mọi mặt và đã thành công. Bài học Ấn Độ là dân chủ có khả
năng đưa một đất nước ra khỏi tình trạng tuyệt vọng và thiết lập dân chủ không
hề đòi hỏi một điều kiện tiên quyết nào cả. Đúng ra dân chủ cũng đòi hỏi một
điều kiện để thành công mỹ mãn, đó là được thực hiện một cách lương thiện. Ấn
Độ đã may mắn có được một giai cấp chính trị lương thiện. Họ chấp nhân tự do
ngôn luận và sự minh bạch, ngay cả nếu vì thế mà những yếu kém của họ bị phơi
bày. Họ chấp nhận bầu cử tự do dù có thể bị thất bại. Nhưng lương thiện không
phải chỉ là điều kiện thành công của dân chủ mà là điều kiện bắt buộc của tất
cả mọi hoạt động, có gì không lương thiện mà thành công được đâu, trừ trộm
cướp? Vả lại dân chủ chính là điều kiện cần để áp đặt sự lương thiện như một
luật chơi trong sinh hoạt chính trị.
Tuy nhiên Ấn Độ đã
thành công ngoài mọi chờ đợi, và đó là bí ẩn cần được giải mã. Kinh nghiệm cho thấy có những điều mà người ta chỉ có thể hiểu được qua
tiếp xúc trực tiếp tại hiện trường chứ không thể chỉ dựa trên các tài liệu. Đó
là những yếu tố tâm lý và văn hóa, trong khi chính trị và kinh tế chủ yếu là
những vấn đề tâm lý và văn hóa. Tham quan Ấn Độ là điều tôi muốn từ lâu để
trước hết tìm những sự kiện phản bác những kết luận tạm thời đạt tới qua các
tài liệu.
Một trong những phương pháp giản dị nhất có thể dùng để
giải thích mức độ thành công hay thất bại của một dân tộc là gặp họ để nhận
diện chân dung tập thể của họ qua nét mặt, cái nhìn, cử chỉ, cách đi đứng và ăn
nói. Chân dung của người Ấn Độ là một chân dung của những người hiền lành và
rất an nhiên, những người không lo sợ sẽ bị bắt bớ, giam cầm, đuổi việc, lường
gạt và cũng không đang âm mưu làm hại hay lừa đảo ai. Những người như thế có
thể làm việc với nhau một cách lành mạnh và hiệu quả bởi vì họ không mất thời
giờ để để phá đám ai hay để đề phòng, chống trả lại và sửa chữa những thiệt hai
đến từ người khác. Đó là những người có thể kết hợp với nhau tạo ra những sức
mạnh mới và những khả năng mới của tập thể không có trong từng cá nhân. Sức
mạnh của các dân tộc chủ yếu ở khả năng kết hợp. Ấn Độ có khả năng đó và có ở
một mức độ rất cao. Thể chế dân chủ cho phép xã hội dân sự phát triển tự do và
người Ấn Độ hành sử tối đa và tối ưu quyền tự do kết hợp. Con số chính thức các
hiệp hội phi chính phủ là trên hai triệu, nhưng đó là những NGO có tầm vóc và
có đăng ký, con số thực sự phải gấp mười lần vì đa số các nhóm không thấy
có nhu cầu đăng ký.
Cần nhấn mạnh rằng quyền tự do kết hợp (freedom
of association, thường được dịch một cách sơ sài và sai là "quyền tự
do lập hội") chỉ cần chứ không đủ. Một bằng chứng là cộng đồng người Việt
hải ngoại dù được hoàn toàn tự do kết hợp nhưng đã không xây dựng được một tổ
chức có tầm vóc nào cả. Quan trọng hơn nhiều là những đức tính trong con người
thuận lợi cho kết hợp: sự trung thực, sự chuyên cần, sự kiên trì, lòng vị tha,
tính thích kết bạn, ước mong phục vụ thay vì lợi dụng tổ chức, đặt mục tiêu
chung lên trên tham vọng cá nhân v.v.. Những đức tính này người Ấn Độ đều có và
có ở mức độ cao. Họ có văn hóa tổ chức bẩm sinh. Tôi có thể nhận thấy điều này
ngay trong giao thông trên đường phố. Có những con bò và những bầy heo rừng đi
nhởn nhơ trong thành phố, xe cộ phải tránh chúng và tránh nhau nhưng không ai
tỏ ra bực bội. Ùn tắc giao thông ở Ấn Độ còn nghiêm trọng hơn nhiều so với Việt
Nam theo lời vợ tôi và xe cộ phải luồn lách đủ kiểu. Rất bình thường nếu có xe
chạy sang lề phải (Ấn Độ lái xe bên trái) hay thậm chí chạy ngược chiều trên xa
lộ. Không có ai bực mình, mọi người đều hiểu là người kia bị tình thế bắt buộc
chứ không bất chấp luật pháp. Đường kẹt tới mức hễ có chỗ là phải lách xe vào
dù trái luật giao thông. Vậy mà trong suốt thời gian ba tuần lễ tôi không bao
giờ thấy một vụ đụng xe. Hỏi ra thì Ấn Độ hầu như không có tai nạn giao thông
bởi vì người ta nhường nhịn và tôn trọng nhau, người ta lo cho mình và đồng
thời cũng lo cho người khác. Trong suốt ba tuần lễ tôi đã len lỏi trong nhiều
khu nhộn nhịp, kể cả các khu chợ chen chúc, trong nhiều thành phố nhưng chưa
bao giờ thấy hai người Ấn Độ cãi nhau. Họ luôn luôn thân thiện và hòa nhã. Các
hướng dẫn viên của tôi quả quyết người Ấn Độ không thích xung đột. Họ làm việc
chăm chỉ nhưng không giành giật. Những con người như thế rất dễ sống chung và
hợp tác với nhau. Và đó chính là lý do khiến nền dân chủ Ấn Độ đã thành công
ngoài mọi chờ đợi.
Do đâu mà người Ấn Độ có những đức tính quý báu đó?
Có lẽ phải tìm trong nguồn gốc của họ. Tôi không dám liều
lĩnh tóm lược lịch sử và văn hóa Ấn Độ trong một vài dòng mà chỉ dựa vào lịch
sử và văn hóa để hiểu Ấn Độ ngày nay. Càng ngày đa số các nhà sử học và khảo cổ
càng có khuynh hướng tin rằng nền văn minh đầu tiên của nhân loại đã xuất hiện
tại Ấn Độ. Người ta đã tìm thấy những di tích chứng tỏ rằng cách đây 5000 năm
những con người trong vùng thung lũng sông Indus đã xây dựng được một xã hội
khá tiến bộ về rất nhiều mặt, đặc biệt là thủ công nghiệp, nghệ thuật và thiết
kế đô thị. Đó là một nền văn minh bình đẳng và phi bao lực. Người ta
không tìm thấy vết tích của vũ khi và các cung điện. Xã hội văn minh này đã bị
các bộ lạc du mục hiếu chiến Aryen đến từ Iran và Trung Á chinh phục vào khoảng
thế kỷ 15 trước Công Nguyên. Các bộ lạc này nói tiếng Sanskrit, một ngôn ngữ có
nhiều từ chung với các sắc dân Bắc Âu khiến người ta có thể nghĩ chúng có chung
nguồn gốc với người Châu Âu. Vì không có vũ khí và không biết chiến tranh,
người Ấn Độ đã nhanh chóng bị khuất phục, dù đông đảo hơn gấp bội. Tiếp theo là
hàng ngàn năm thống trị trong đó người Aryen áp đặt tín ngưỡng Bà La Môn
của họ. Thành phần ưu tú địa phương đã bị tiêu diệt bởi vì người ta không còn
hiểu những dấu tích chữ viết còn lại của xã hội này. Tuy vậy, do số lượng quá
ít, giai cấp thống trị dần dần bị địa phương hóa, tương tự như trường hợp nhà
Tiền Lý, họ Khúc, nhà Lý, nhà Trần tại nước ta, những thủ lãnh từ Trung Quốc
sang nhưng đã thành người Việt. Văn hóa và tôn giáo dân gian, nghĩa là Ấn Giáo,
dần dần giành lại thế áp đảo. Quần chúng Ấn chấp nhận những thần linh Aryen như
Brahma, Vishnu v.v. như là những tên gọi khác của các thần linh sẵn có của họ
như Krishna, Rama v.v. Với thời gian không phải Brahma, đấng tối cao của đạo Bà
La Môn, mà Vishnu với những tên gọi Krishna, Rama, và cả Siddhartha, được tôn
sùng cùng với Shiva và nhiều thần linh khác không có trong đạo Bà La Môn. Tại
Ấn Độ chỉ còn hai đền thờ nhỏ dành cho Brahma nhưng có hàng ngàn đền thờ nguy
nga tráng lệ dành cho Vishnu, Krishna, Rama, Shiva và các thần linh khác. Sự
thoái bộ liên tục của đạo Bà La Môn trước Ấn Giáo không phải chỉ diễn ra trong
xã hội mà trong cả tư tưởng. Từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 6 trước CN bộ kinh Upanishad
đã được tạo ra để bổ túc thánh kinh Veda của Bà La Môn. Nói là bổ túc
những thực ra là thay đổi (cũng tương tự như Phật Giáo Đại Thừa đối với Phật
Giáo Nguyên Thủy). Người ta có thể thấy trong Upanishad những tư tưởng
hoàn toàn trái ngược với quan niệm đẳng cấp của Bà La Môn. Thí dụ: "Luật
là sự tối thượng của sự tối thượng. Không có gì cao hơn luật. Luật khiến kẻ yếu
có thể khuất phục kẻ mạnh, như vua. Luật là sự thực" , hay "Đấng
tối cao là linh hồn của tất cả, là nguyên lý của vạn vật, tinh vi hơn tất cả
mọi sự tinh vi, là sự vĩnh cửu, là chính ngươi, chính là ngươi". Khó
có thể tìm thấy những tuyên ngôn về nhà nước pháp trị và nhân quyền hùng hồn
hơn. Một nhượng bộ quan trọng khác của Bà La Môn trước Ấn Giáo là sự chấp nhận
thuyết luân hồi trong Upanishad. Các nhà lý luận Bà La Môn đã rất lúng
túng để lý giải những mâu thuẫn giữa đạo Bà La Môn nguyên thủy với tư tưởng Ấn
Giáo được phơi bày trong Upanishad, và họ không thành công. Phật Giáo đã
xuất hiện vào thế kỷ thứ 6 (cùng với một số tín ngưỡng khác như Jain và
Samkhya) như là hậu quả của những mâu thuẫn này và như một phản kháng đối
với tư tưởng Bà La Môn. Phật giáo phủ nhận đẳng cấp, nhìn nhận thuyết luân hồi,
đề cao lẽ phải và sự từ bi nhưng đồng thời, khác với Ấn Giáo, cũng phủ nhận
luôn giá trị của cuộc đời, chỉ nhìn cuộc đời như một chuỗi khổ đau. Phật Giáo
có lúc đã được áp đặt làm quốc giáo. Một cách không chủ ý nhưng tự nhiên Phật
Giáo đã mở đường cho Ấn Giáo tiến lên sáp nhập và tiêu hóa cả Bà La Môn lẫn
Phật Giáo. Sau này Ấn Giáo cũng đủ mạnh để chống trả lại sự áp đặt rất thô bạo của
Hồi Giáo do lực lượng thống trị ngoại xâm trong gần mười thế kỷ trước khi người
Phương Tây tới. Trái với một thành kiến sai khá phổ biến Ấn Giáo không phải là
một mê tín dân gian hay một tôn giáo bi quan yếm thế. Trái lại nó là tôn giáo
độc đáo nhất thế giới. Không có người sáng lập, cũng không có hàng giáo phẩm và
những người truyền giáo nhưng vẫn có gần một tỷ tín đồ với một giáo lý tinh vi
và thành văn, dù không ai biết tác giả (cũng tương tự như kho tàng văn thơ ca
dao của chúng ta nhưng ở một qui mô lớn hơn nhiều). Không ai có thể đọc hết bộ
kinh Mahabharata dài gần 100.000 đoạn trong đó bài trường ca Bhagavard
- Gita, phúc âm của Ấn Giáo, đề cao tình yêu, bổn phận và lẽ phải được các
nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những tác phẩm thi ca tuyệt diệu nhất của
nhân loại. Nét đậm nổi bật của Ấn Giáo là tôn trọng sự thực, tôn trọng sự sống
của con người cũng như của mọi sinh vật và từ chối bạo lực trong cách ứng xử.
Đó là một điểm yếu trong thời đại của bạo lực, chiến tranh và chinh phục, đó
cũng là lý do đã khiến Ấn Độ liên tục bị xâm lăng và thống trị, nhưng đó lại là
một sức mạnh quyết định trong thời đại văn minh và dân chủ. Ấn Giáo cũng có
những yếu tố tiêu cục như các tôn giáo khác nhưng chứa đựng một văn hóa lành
mạnh. Và chính nền văn hóa lành mạnh đó đã giải thích sự thành công ngoài mọi
chờ đợi của Ấn Độ.
Hình
: http://farm8.staticflickr.com/7425/10993232794_3577f47ca0_o.jpg
Những bước chân cuối cùng cùng của Mahatma Gandhi. Ngày 30-01-1948, hồi 5 giờ chiều, sau khi nói chuyện với Patel, cánh tay mặt của ông, Gandhi từ trong phòng này đi ra nhà nguyện đề đọc kinh. Đi được một đoạn đường ngắn ông bị một người cực đoan bắn. Ông thốt lên "Ô, Rama!" rồi tắt thở. Rama là một trong những vị thần của Ấn Giáo mà Gandhi là một tín đồ. Lời cuối cùng của Gandhi bày tỏ sự ngạc nhiên vì Ấn Giáo là một tôn giáo bất bạo động.
Những bước chân cuối cùng cùng của Mahatma Gandhi. Ngày 30-01-1948, hồi 5 giờ chiều, sau khi nói chuyện với Patel, cánh tay mặt của ông, Gandhi từ trong phòng này đi ra nhà nguyện đề đọc kinh. Đi được một đoạn đường ngắn ông bị một người cực đoan bắn. Ông thốt lên "Ô, Rama!" rồi tắt thở. Rama là một trong những vị thần của Ấn Giáo mà Gandhi là một tín đồ. Lời cuối cùng của Gandhi bày tỏ sự ngạc nhiên vì Ấn Giáo là một tôn giáo bất bạo động.
Xin kết luận bài này bằng hai nhận định cho Việt Nam qua
trường hợp Ấn Độ.
Một là, đối với người Việt Nam cuộc tranh đấu cốt lõi của
chúng ta trong lúc này là giành lấy quyền tự do kết hợp và xây dựng một xã hội
dân sự lành mạnh. Nhưng quyền tự do kết hợp chỉ cần chứ không đủ. Điều cần hơn
là những con người trung thực và văn hóa tổ chức mà người Ấn Độ có từ bẩm sinh
nhưng chúng ta lại gần như phải phát minh ra, hoặc phát minh lại. Đây là một cố
gắng mà trí thức Việt Nam phải đảm nhiệm phần chính, và muốn như thế thì trước
hết họ phải là những trí thức đúng nghĩa. Thiệt hại lớn nhất mà đảng và chế độ
cộng sản gây ra cho nước ta là sự xuống cấp của những giá trị đạo đức và sự
thiếu vắng của xã hội dân sự. Nhưng chế độ cộng sản không còn khả năng toàn trị
như trước nữa. Nếu thực sự có thành tâm và quyết tâm chúng ta vẫn có thể kết
hợp ngay trong lúc này. Vả lại muốn có quyền tự do kết hợp thì phải kết hợp
trước đã. Tự do không thể ban phát.
Hai là, nếu so sánh Ấn Độ và Trung Quốc thì chúng ta có
thể nói Ấn Độ là một lục địa hỗn tạp, nghèo khổ và đầy mâu thuẫn mà dân chủ
đang biến thành một nước lớn, hòa hợp và đầy triển vọng, trong khi Trung Quốc
là một nước vốn đã lớn mạnh, thống nhất, văn minh và có nề nếp mà chế độ toàn
trị đang phá hủy. Chúng ta quý trọng nhân dân Trung Hoa nhưng không thể chấp
nhận mô hình chính trị tồi tệ và độc hai hiện nay của họ mà chính những người
Trung Quốc sáng suốt cũng đang cố gắng vất bỏ.
(11/2013)
Nguyễn Gia Kiểng
Nguyễn Gia Kiểng
No comments:
Post a Comment