Nguyễn
Hoàng Văn
Tháng
7 30, 2013
Nhà
văn Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu và những kẻ a tòng trong vụ đấu tố luận văn của
Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan nên tìm đọc công trình nghiên cứu History of Shit của
Dominique Laporte [i].
Họ
cần đọc để may ra ngộ thêm, sáng thêm một vài điều. Họ cần đọc để hiểu rằng bất
cứ thứ gì liên quan đến con người và cuộc sống, dù vĩ đại hay bé tí, dù thanh
cao hay ghê tởm như là shit, sản phẩm của quá trình bài tiết, cũng đều
đáng để nghiên cứu cả. Và họ cần đọc để hiểu rằng, chính họ, như những quân
binh chỉ điểm và đấu tố, cũng rất đáng trở thành đối tượng nghiên cứu trong
một công trình hàn lâm tương tự.
Trong
cuốn sách trên Laporte đã nhìn lại lịch sử văn minh qua cách thức mà nhân loại
ứng xử trách nhiệm với cặn bã bài tiết mà mình thải ra: theo từng thời kỳ,
những thế cách ấy đã tăng tiến một cách phù hợp với những tiến trình văn minh
khác, trong đó có tiến trình hình thành ý thức cái Tôi, ý thức về con người cá
nhân, đặc biệt là cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng. Nói cho gọn thì đây
là sự phát triển của “văn hoá bài tiết”: càng ý thức về những tác động từ sự
“bài tiết” của mình, nhân loại càng đường hoàng và chính trực hơn trong việc
thể hiện trách nhiệm trước những đống bài tiết mình thải ra.
Từ
chuyện bài tiết sinh học này, hãy nhìn đến sự bài tiết ý thức – tư tưởng của
những hệ thống cầm quyền.
Sự
sống là một tiến trình trao đổi chất, ở đó từng hệ thống hấp thụ chất dinh
dưỡng bên ngoài và thải hồi những cặn bã sau một tiến trình xử lý. Để sống thì
hệ thống sinh học của từng cá nhân phải trao đổi chất qua tiến trình hô hấp,
tiêu hoá và bài tiết. Và để sống, từng hệ thống cầm quyền phải tiến hành công
việc tương tự về mặt ý thức và tư tưởng: “hô hấp” và “tiêu hoá” để hấp thụ
những tư tưởng mới của thời đại và thải hồi cái đã lỗi thời.
Vấn
đề cần nêu ra ở đây cũng là “văn hoá bài tiết” và nói theo ngôn ngữ tuyên giáo
của hệ thống toàn trị là phải “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.
Nếu cá nhân không được phép vô trách nhiệm trước những thứ mà cơ thể mình
bài tiết thì hệ thống chính trị cũng không được dửng dưng trước những cặn bã nó
thải ra. “Không được phép vô trách nhiệm” hay “dửng dưng” chỉ là một cách nói.
Một cách bình dân, nôm na, có thể nói thẳng là “ỉa bậy” hay “ỉa vất”: cá nhân
không đuợc ỉa vất, chế độ cầm quyền không được ỉa vất.
Thế
nhưng những bằng chứng lịch sử hiển nhiên lại cho thấy rằng cái hệ thống toàn
trị hô hào “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là một hệ thống chuyên ỉa
vất, chuyên ứng xử vô trách nhiệm, luôn phủi tay trước những đống cặn bã mà nó
thải ra. Nó ỉa bậy trên phương diện ý thức – tư tưởng đến độ, cho đến nay, sau
gần ba phần tư thế kỷ, vẫn chưa chịu xây cho mình một cái hố xí hai ngăn.
Một
thời, hệ thống toàn trị xây dựng sự sống còn của mình trên tư tưởng đấu tranh
giai cấp cứng nhắc theo mô hình Stalinist hay Maoist mà hai thí dụ đau đớn nhất
là phong trào đấu tố địa chủ trong Cải cách Ruộng đất vào thập niên 50, là
phong trào đấu tố văn nghệ trong vụ Nhân văn – Giai phẩm vào thập niên 60.
Nhưng để tiếp tục sống còn thì phải thải hồi những tư tưởng cứng nhắc ấy và,
theo góc độ “văn minh bài tiết” mà Laporte đã chỉ ra, hệ thống trị vẫn chưa đủ
trưởng thành để bài tiết một cách đàng hoàng và tử tế trong tinh thần “dám chịu
trách nhiệm”.
Nó
không bao giờ “sai lầm” hay “ấu trĩ”, chỉ có “một thời sai lầm và ấu trĩ”. Nó
không có lỗi, chỉ “lịch sử” và “thời đại” là có lỗi. Nó thải, nhưng không nhận
đó là chất thải. Nó bài tiết, nhưng không dám vứt thẳng vào hầm tiêu. Không
thừa nhận là chất thải, cũng không dám vứt vào hầm cầu, nó đã hiện nguyên hình
là một hệ thống ỉa bậy.
Trở
lại với câu chuyện Nhã Thuyên và công trình nghiên cứu về nhóm Mở Miệng. Lịch
sử chắc chắn sẽ lặp lại và một mai, khi quyền “Mở Miệng” được công nhận hay, ít
ra, được đối xử công bằng và tử tế, cái chu kỳ ỉa bậy và “từng một thời ấu trĩ”
kia cũng sẽ lặp lại. Nó lặp lại để những kẻ đang hăng hái lập công bằng cách
chỉ điểm hay đấu tố sẽ kết thúc sinh mệnh văn nghệ hay “nghiên cứu” của mình
tương tự sự nghiệp chỉ điểm và đấu tố của những bậc quân binh đi trước trong
thập niên 50 và 60, những tên tuổi hiên đang trôi nổi trong đống chất thải vô
thừa nhận của hệ thống toàn trị.
Có
người gọi đoàn quân chỉ điểm và đấu tố ấy là những nhà “phê bình kiểm dịch”
nhưng gọi vậy e không chính xác [ii].
“Kiểm dịch” là để ngăn ngừa bệnh dịch. Còn những cây bút ấy, khi đã tự nguyện
nhảy vào hàng ngũ của đống chất thải vô thừa nhận, đã là hiện thân của một thứ
mầm dịch, thứ dịch đã và đang phá hoại sự phát triển bình thường của nền văn
học nói riêng và của đất nước nói chung [iii].
Như
thế, nếu có một dự án nghiên cứu toàn diện về hệ thống toàn trị, cần có một
chương trình nghiên cứu đặc biệt, chuyên sâu về quá trình ỉa bậy của hệ thống,
cái quá trình “không dám chịu trách nhiệm” với những cặn bã gây dịch mà nó liên
tiếp thải ra. Nhìn lại lịch sử nhân loại qua lăng kính bài tiết, Laporte đã có
công trình đặc sắc History of Shit và chúng ta, nếu nhìn lại một chặng
đường của đất nước trong phối cảnh riêng về chất thải mà hệ thống toàn trị đã
bài tiết, chúng ta sẽ có gì?
Một
History of Plague, Lịch sử của bệnh dịch chăng?
Từ
History of Shit đến History of Plague: đáng gọi như thế lắm vì
cái ổ dịch một thời của đất nước đang ngo ngoe sống lại, đang âm thầm truyền
nhiễm và đang cố gây không khí khủng bố qua những hành động chỉ điểm và đấu tố
một luận văn cao học.
30.7.2013
©
2013 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra
[i]
Dominique Laporte, (2001), History of Shit. Cambridge: The Massachusetts
Institutes of Technology Press. [Nguyên tác: Histoire de la Merde, bản Anh ngữ
của Nadia Benabid và Rodolphe el-Khoury .]
[ii]
Trần Đình Sử, “Phê bình
kiểm dịch”, 17-7-2013
[iii]
Về phong trào đấu tố luận văn cao học “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của
nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hoá” (Bảo vệ năm 2010 tại khoa Ngữ Văn, ĐH Sư phạm
Hà Nội) của Nhã Thuyên, có thể đọc các bài viết: Phạm Thị Hoài. “Cú giãy cuối cùng của nền phê bình
chỉnh huấn” (10.7.2013) và: Trần Đình Sử. “Cuộc
phê phán luận văn của Đõ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế
hệ” (26.7.2013).
No comments:
Post a Comment