Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-08-02
2013-08-02
Giá gạo Việt Nam đã
tách ra khỏi mặt bằng giá gạo thế giới và trở thành nguồn cung cấp rẻ nhất.
Phát biểu của ông Trương Thanh Phong, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam
được thông tấn xã Nhà nước và báo chí đưa tin hồi đầu tháng 7, thoạt nghe tưởng đâu gạo Việt
Nam cạnh tranh tốt vì giá rẻ. Nhưng không phải vậy, phẩm chất gạo Việt Nam đã
xuống thấp đến mức độ khách hàng chỉ chịu mua vì giá quá rẻ.
Chất
lượng xuống thấp
Theo
các báo điện tử Pháp Luật TP.HCM và Saigon Tiếp Thị bản tin trên mạng ngày
29/7, ngay cả nước láng giềng Campuchia, hồi sinh từ diệt chủng, nay mới bắt
đầu xuất khẩu gạo mà giá gạo 5% tấm còn cao hơn của Việt Nam tới 75 USD/tấn, cụ
thể có thời điểm Xứ Chùa Tháp bán gạo 5% giá 480 USD/tấn so với 405 USD/tấn của
Việt Nam. Tờ báo trích lời GSTS Võ Tòng
Xuân, Hiệu trưởng trường Đại học Tân tạo Long An mô tả, gạo Campuchia có tỉ
lệ gạo đồng nhất, loại nào ra loại đó, không phải như Việt Nam một bao gạo 5% tấm nhưng trộn đủ
loại trong đó.
Trong
thí dụ điển hình, một nông dân làm lúa
thơm ở Cần Thơ mô tả việc thương lái và doanh nghiệp đấu trộn lúa để có lời
nhiều hơn:
“Lúa
Jasmine 85 so với Thái Lan cũng không thua gì bao nhiêu, thơm ngon dẻo có đủ,
nhưng mấy ‘cha’ tham ăn quá xem dân không ra gì hết. Dân sạ giống chất lượng
cao, sạ độ thuần rất là thuần, giống nó bằng, nó rặc, không bị lỏng, nhưng mua
về mấy ‘cha’ đấu trộn bậy bạ mang tiếng dân, đổ thừa cho dân làm giống không
chất lượng cao. Thương lái đấu một mớ, doanh nghiệp đấu một mớ nữa.”
Những
năm thị trường gạo thế giới cung thấp hơn cầu, thì gạo Việt Nam còn dễ bán.
Nhưng nay thị trường thừa cung, nhiều nước tạm ngừng xuất khẩu gạo như Ấn Độ,
Pakistan từ năm ngoái đã tham gia thị trường trở lại. Đó là chưa kể những đối
thủ tiềm năng như Cămpuchia và Myanmar. Vào đầu tháng 7 vừa qua, gạo 5% tấm của Việt Nam đã rơi
xuống đáy phải chào bán với giá 365 USD/tấn, hiện nay tuy báo giá của
doanh nghiệp Việt Nam cho thấy giá gạo các loại đã tăng hơn trước nhưng vẫn kém
gạo cùng phẩm cấp của Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan từ 50 tới 75 USD/tấn.
Quá
nhiều nguyên do dẫn tới thực tế hiện nay cho nông nghiệp Việt Nam, quốc gia
xuất khẩu gạo đứng thứ nhì thế giới nhiều năm liền. Năm 2012 cả nước xuất khẩu
7,7 triệu tấn gạo nhưng thu nhập bình quân của nông dân vựa lúa xuất khẩu đồng
bằng sông Cửu Long chỉ hơn 500.000 đồng/người/tháng.
Nông dân làm lúa
phát biểu:
“Nông
dân quá bức xúc năm nay làm ruộng lời chưa được 10% làm sao mà sống nổi. Trong
khi phân bón thuốc trừ sâu của mấy ‘cha’ sản xuất ra thì nhìn ra theo giá thế
giới không biết sao, giá trong nước thậm chí còn mắc hơn giá u-rê Trung Quốc
nhập vô. Nông dân kiểu này nghèo suốt đời luôn, bộ chế độ này không cho nông
dân làm giàu, đè đầu không cho ngóc đầu lên. Vậy là nói dân giàu nước mạnh cái
nỗi gì, nước giàu dân mạt thì có…xã hội công bằng dân chủ văn minh, dân
chủ chưa thấy chỗ nào, văn minh thì dân thu nhập không cao làm gì phát
triển trí thức được…”
Nhà
nước Việt Nam có thể đã hài lòng về việc từ chỗ thiếu lương thực mà trong vòng
20 năm trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới và chẳng lắng nghe trước
những khuyến cáo rất sớm, đối với vấn đề thay đổi tư duy tiểu nông.
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế
từ Hà Nội nhận định:
“Nông
nghiệp là một trong các trụ đỡ rất quan trọng đối với nền kinh tế của Việt Nam.
Còn việc Việt Nam đã khắc phục được nạn thiếu lương thực phải nhập khẩu, rồi
phải bán theo định lượng, thậm chí phải bán bo bo để thay gạo thì đã qua rồi và
đấy là những thành tựu rất đáng kể. Tuy vậy việc sản xuất lương thực của Việt
Nam hiện nay đang có vấn đề là chưa kết hợp được giữa khâu sản xuất với khâu
thu mua lưu thông chế biến và xuất khẩu. Giữa khâu sản xuất, khâu thu mua và
khâu xuất khẩu này lại chưa có hợp đồng một cách ổn định, vì vậy bị cắt đứt
đoạn và hạt gạo Việt Nam phải qua quá nhiều tay thì mới đi đến xuất khẩu được.
Cứ mỗi lần như vậy thì những cá nhân thu mua, công ty thu mua đều có một phần
lãi, nhưng người nông dân thì ít được lãi. Tôi nghĩ vấn đề ở đây trước hết Việt
Nam sẽ phải tổ chức lại sản xuất, phải ký kết hợp đồng giữa người sản xuất và
người tiêu thụ, người chế biến và người xuất khẩu.”
Chính
sách cản trở công nghiệp hóa
Chính
sách chia đều ruộng đất ở Việt Nam vô hình trung lại là một trong những nguyên
nhân cản trở sản xuất nông nghiệp công nghiệp hóa. Trong một lần trả lời chúng
tôi, TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn từng
đề cập tới nhu cầu cấp thiết phải đổi mới, tái cơ cấu thay đổi thể chế nông
thôn.
Ông nói:
“…
Nếu người nông dân Việt Nam với qui mô 0,6 héc-ta mà lại chia thành 5 tới 15
mảnh ruộng nhỏ và chia nhỏ thành hơn 10 triệu hộ riêng lẻ như hiện nay thì
không có tài gì có thể tập hợp lại, có thể đưa ra khối lượng sản phẩm hàng hóa
với chất lượng cao và ổn định, đưa đến tay khách hàng đúng hạn và đảm bảo các
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn, cũng như không có tài gì mà các ngân hàng, các tổ
chức khuyến nông có thể bù đắp nổi chi phí để đưa các dịch vụ phục vụ cho đến
tận làng bản xa xôi cho từng người nông dân nhỏ lẻ như thế cả. Đấy không thể là
kết cấu của một nền sản xuất hàng hóa lớn được…”
Chất
lượng lúa gạo tất nhiên liên quan đến công nghệ sau thu hoạch mà Việt Nam sẽ
phải mất nhiều thời gian và tiền bạc nếu muốn tái cơ cấu nông nghiệp, đặc biệt
về sản xuất lúa gạo.
TS
Phạm Văn Tấn chuyên gia công nghệ sau thu hoạch ở các tỉnh phía nam từng nói
với chúng tôi, Việt Nam làm ra hạt gạo theo qui trình ngược làm giảm chất lượng
và thất thoát. Doanh nghiệp mua gạo nguyên liệu của thương lái rồi mới chà bóng
để xuất khẩu, thay vì phải mua lúa để có thể trữ lâu dài.
TS Phạm Văn Tấn nhận
định:
“Có khoảng 2,5 triệu tới 3 triệu tấn kho hai
mái cũng như nhà bình thường, hầu hết những kho đó đều không bảo đảm yêu cầu kỹ
thuật để chứa lúa quá 6 tháng mà chỉ có thể chứa dưới ba tháng. Như thế không
thể đáp ứng chiến lược lúa gạo, vì phải chứa lúa hơn 6 tháng mới có thể dự kiến
sự biến động của gía cả lúa gạo trên thị trường thế giới, thì lúc đó mới có thể
điều tiết được lúc nào bán ra lượng nhiều, lúc nào cần hạn chế, như thế thương
mại lúa gạo của Việt Nam mới không bị khách hàng quốc tế ép giá.”
Chủ
trương đẩy mạnh trồng lúa mà không kèm theo phát triển công nghệ sau thu hoạch,
hoặc thực hiện rất chậm chạp, đã đưa đến nhiều hậu quả nhất là khi thị trường
thế giới suy giảm.
Tuy vậy, vấn đề để lại nhiều hậu quả nhất lại chính là
chính sách tiêu thụ và xuất khẩu gạo mang tính độc quyền. GSTS Võ Tòng Xuân,
Hiệu trưởng trường Đại học Tân Tạo Long An vạch rõ điều này trên báo mạng
Phunutoday. Theo đó từ chính phủ đến Bộ Công thương và Bộ NN-PTNT dù có
chính sách tự do mậu dịch, nhưng trong thực tế lại giao tất cả quyền hành xuất
khẩu cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA). Chủ tịch của VFA là ông Trương
Thanh Phong lại đồng thời là Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực Miền Nam
(Vinafood 2). Trong VFA hai Tổng Công ty Lương thực Nhà nước Vinafood 1 và
Vinafood 2 chiếm lĩnh 60% tới 70% thị phần xuất khẩu gạo của cả nước. Các Tổng
công ty này luôn luôn có lời vì xuất khẩu gạo giá thấp thì mua vào thấp hơn và
hưởng chênh lệch.
Báo
điện tử Đất Việt ngày 24/7 dẫn lời Phó Giáo sư TS Nguyễn Văn Nam nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Thương
mại (Bộ Công thương) nhận định rằng: “Chính
sách hỗ trợ thu mua tạm trữ gạo đang góp phần làm giá gạo Việt Nam rẻ nhất thế
giới, danh nghĩa là hỗ trợ nông dân nhưng thực tế doanh nghiệp xuất khẩu
hưởng lợi lớn, còn người nông dân chỉ được chút ít lợi ích gián tiếp.”
Theo
lời ông Nguyễn Văn Nam, chính phủ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp xuất
khẩu giúp họ giảm chi phí cho việc thu mua gạo, tức là mua được giá rẻ, và
đương nhiên doanh nghiệp cũng sẵn sàng xuất khẩu với giá rẻ mà lợi nhuận không
suy giảm. Thêm nữa, nhà xuất khẩu sẵn sàng bán rẻ vì họ có một chân hàng rất
dồi dào trong nước, và họ sẽ tiếp tục xuất khẩu lô thứ 2, thứ 3, tổng hợp lại
là lợi nhuận của họ cao hơn nhiều so với dự trữ và chờ giá cao mới xuất
hàng. Vì vậy, chính sách hỗ trợ tạm trữ gạo lại vô tình đẩy giá xuất khẩu
gạo VN xuống thấp. Vơi gía thấp đó lợi ích nhà xuất khẩu không hề suy
giảm, còn người nông dân chịu mọi thua thiệt, càng làm càng lỗ.
Vẫn
theo Đất Việt Online, PGS.TS Nguyễn Văn Nam nhấn mạnh, bản than nông dân cần
bán lúa, còn chương trình lại hỗ trợ mua gạo, như vậy điều gọi là ‘lợi ích cho
người nông dân’ chỉ là một con bài chính trị nhằm thực hiện lợi ích thiết thực
và lớn lao cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Mặt khác xưa nay chỉ có
thể dự trữ thóc lúa thì mới có thể duy trì được chất lượng hạt gạo,
còn dự trữ gạo chỉ có làm cho chất lượng hạt gạo giảm, dự trữ càng lâu chất
lượng càng giảm, kéo theo giá trị giảm.
No comments:
Post a Comment