Phong Uyên lược dịch
03:47:am
04/08/13
Lời
người dịch:
Tiến sĩ sử học Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, PIERRE JOURNOUD là nghiên
cứu viên ở Học viện Nghiên cứu Chiến lược trường Đại Học Quân sự Pháp, đồng
thời cũng là cộng tác viên nghiên cứu Trung Tâm Lịch sử Châu Á hiện đại. Cuốn
sách viết về đường lối và cách đối xử của De Gaulle đối với Mỹ và hai miền Nam
Bắc Việt Nam trong những giai đoạn ông nắm quyền từ năm 1945 và nhất là từ sau
1961. Sách dày 543 trang với 100 trang liệt kê danh sách các chú thích và các
tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp, Mỹ, Canada… .được ấn hành tháng Tư năm
2011, là công trình luận án tiến sĩ của ông. Luận án được giải thưởng Jean
Baptiste Duroselle dành cho những luận án được coi là nổi bật nhất về lịch sử
bang giao quốc tế. Trong bản dịch này tôi xin bỏ những phần nói về những mâu
thuẫn giữa Pháp và Mỹ về vấn đề việt Nam mà chỉ lược dịch những phần nói về
quan điểm và đường lối của De Gaulle đối với Việt Nam từ 1945 cho đến khi ông
từ chức tồng thống đệ Ngũ Cộng hòa Pháp năm 1969.
Có
thể nói đường lối này vẫn được những người kế tiếp ông theo đuổi cho tới năm
1975. Nhưng cũng phải nói là cách nhìn của De Gaulle về Việt Nam từ khi nắm
quyền lần đầu đến sau Hiệp định Geneve 1954 – vì đố kỵ với Mỹ – đã thay đổi rất
nhiều: Hồi nước Pháp mới được giải phóng năm 1945, De Gaulle vẫn còn mang nặng
đầu óc thực dân và chỉ có mục đích duy nhất là bảo tồn đế quốc Pháp, muốn vậy
phải canh tân và đổi mới đế quốc dưới cái vỏ Liên Hiệp Pháp và phải thoả mãn
một phần nào khác vọng của các dân tộc bị trị. Phải đợi đến năm 1966 trong cuộc
viếng thăm Phnom Penh De Gaulle mới trở thành quán quân của quyền dân tộc
tự quyết.
Cuốn
sách cũng phanh phui nhiều bí ẩn trong những diễn biến ở miền Nam, đặc biệt là
về hòa thượng Thích trí Quang, về liên lạc giữa ông Nhu và giải phóng miền Nam
và sự nhất trí giữa Pháp và Mỹ trước khi có Hội nghị Paris.
Hình
bìa sách
Tác
giả Pierre Journoud
———————————————————-
Tháng
12 1945 : một hi vọng lớn bị kết liễu?
Ngày
26-12-1945 chiếc máy bay Lockheed Lodestar trên đường bay về đảo Réunion bị rớt
ở M’Baiki giữa khu rừng nhiệt đới thuộc nước Cộng Hoà Trung Phi bây giờ. Trong
số 6 người tử nạn có một hoàng thân Việt Nam 45 tuổi. Vị hoàng thân này có một quá
khứ lừng lẵy và óc thông minh chính trị có thể, với sự hưởng ứng của mọi người
Việt, đi đến một thoả hiệp với De Gaulle để đưa nước Việt Nam ra khỏi chế độ
thực dân.
Làm
hoàng đế Annam từ 1907 đến 1916 dưới vương hiệu Duy Tăn, hoàng tử Vĩnh San bị
chính quyền Pháp đầy ra đảo Réunion khi cầm đầu một cuộc nổi loạn đòi độc lập
cho đất nước mình. Trong gần 30 năm bị đầy ải, sống một cách khiêm nhường với
số tiền trợ cấp ít ỏi và một nguồn đam mê là ngành vô tuyến điện. Khác với vua
cha, hoàng đế Thành Thái (1889-1907), cũng bị Pháp truất phế và đưa đi đầy cùng
với con, Vĩnh San không vứt bỏ văn hoá Pháp và cũng không chịu thoái vị nên vẫn
là vị hoàng đế cuối cùng hợp pháp của Việt Nam. Nhờ giỏi về vô tuyến điện nên
Vĩnh San đã bắt được lời kêu gọi của De Gaulle trên đài BBC ngày 18-6-1940, gia
nhập nhóm kháng chiến, bị chính quyền thân Đức bắt cầm tù. Khi đảo Réunion trở
về với nước Pháp Tự do, thì tình nguyện ký khế ước nhập ngũ hải quân trên tàu
phóng ngự lôi Léopard với chức vô tuyến trưởng. Tuy nhiều lần Vĩnh San
xin ra tiền tuyến nhưng chính quyền Pháp vẫn nghi ngờ cái quá khứ quốc gia
phiến loạn của ông, nên chỉ cho ông gia nhập chính thức quân đội Pháp tháng Một
1944 với chức vị chuẩn úy.
Không
những Vĩnh San gặp khó khăn trong quân đội mà ngay ở bộ Thuộc địa, tổng trưởng
bộ này cũng chống đối sự có mặt của hoàng thân ở Paris mặc dầu có sự can thiệp
của De Gaulle. Tháng 9-45 Vĩnh San kết liễu chiến tranh với chức vị tiểu đoàn
trưởng trong đội quân chiếm đóng nước Đức và được trao tặng huân chương Kháng chiến.
Cũng thời gian ấy Vĩnh San cho đăng trên báo Combat (Chiến đấu) một chúc
thư chính ttrị trong đó ông khởi xướng Việt Nam phải đạt được độc lập và thống
nhất. Cũng vì Paris tiếp tục chống đối những đòi hỏi đó, Vĩnh San Vĩnh San đã
viết trên báo này những hàng gần như là tiên tri:
“Tôi
nghĩ rằng tương lai gần nhất của Đông Dương phải được đặt trên tình bạn và lợi
ích chung chứ không phải trên ý tưởng ngự trị. Tôi nghĩ rằng những người mất
kiên nhẫn sẽ kêu gọi sự trọng tài có vụ lợi của Trung Quốc và Mỹ. Để khỏi mất
kiên nhẫn tôi nghĩ nước Pháp phải chứng tỏ thiện chí của mình… chứng tỏ bằng
cách bỏ những hàng rào chia cắt Bắc, Trung, Nam…”
Vĩnh
San cũng tỏ ra là có óc thực dụng chính trị khi nói thêm: “tôi thiển nghĩ làm
đúng bổn phận người An Nam khi tôi tạo được trong đầu mỗi người dân quê từ Lạng
Sơn tới Huế tới Cà Mau ý nghĩa của tình huynh đệ. Không cần biết là mối tương
thân đó được thể hiện bất cứ dưới chế độ nào, cộng sản, xã hội, quân chủ, vương
quyền. Cái cốt yếu là tránh đắt nước bị phân chia từng mảnh một.
Ngày
14-12-45 thiếu tá Vĩnh San gặp De Gaulle trình bày ý kiến của mình. Tướng De
Gaulle bị ông chinh phục có vẻ chấp thuận những điểm đại cương. Không chấp nhận
về hình thức sự thống nhất Việt Nam, nhưng De Gaulle cũng tạo cho Vĩnh San ý
tưởng là sau 1 thời gian nhất định, Pháp sẽ chấp thuận Việt Nam đi đến thống
nhất.
Theo
một vài chứng nhân, cái chết bất ngờ của Hoàng thân Vĩnh San đã làm De
Gaulle thất vọng một cách sâu xa, vì cái ý định bí mật của ông muốn
dựa vào Vĩnh San để giải quyết vấn đề Đông Dương mỗi ngày một thêm khó
khăn, bỗng nhiên trở thành mồ côi. Theo hồi ký của tưóng De Boissieu (
con rể De Gaulle ), thì đó cũng là một trong những nguyên nhân làm De Gaulle từ
bỏ chức vụ lần đầu ngày 20-1-46?
Chọn
lựa chiến tranh
Khi
tướng Leclerc đến Sài Gòn tháng 10-45, De Gaulle dặn là phải phô trương sức
mạnh trước khi đàm phán, nhưng cũng dặn là phải thận trọng khi tiến quân, tránh
những đụng độ với người Việt. Mặc dầu 3 tuần trước khi Leclerc đến, Jean
Cédile, ủy viên cộng hoà tại Nam Kỳ, quyền đại diện nước Pháp, đã cảnh báo là ”
các lãnh đạo Việt Nam đều rất cứng đầu về từ ngữ độc lập “; người đồng sự với
Cédile nhẩy dù xuống Bắc Kỳ bị bắt. Khi được thả tháng 11, Pierre Messmer (Lnd:
sau này là thủ tướng Pháp) cũng nói như vậy về sự quyết tâm của những người
theo Hồ Chí Minh : “từ các giáo viên, thư ký sinh viên, kế toán viên…, không ai
chịu một sự nhượng bộ nào cả. Những người này đều thành thật, phần nhiều là
trung trực có khi tỏ ra rất can trường, sẽ không bao giờ chịu đầu hàng cả “.
Messmer kết luận là chỉ có thoả hiệp với Việt Minh mới khỏi mất mặt. Cuối tháng
12-45, đến lượt Jean Sainteny cảnh báo chính phủ là sẽ có đụng độ to lớn nếu
Pháp muốn tái lập chủ quyền của mình bằng sức mạnh.
De
Gaulle vẫn nuôi hi vọng là khi chủ quyền Pháp được tái lập lại ở Việt Nam, Pháp
sẽ có thể đàm phán trong vị thế mạnh. Để có thể thực hiện ý định chính trị của
mình và bảo vệ nó khi rời bỏ chức vụ, De Gaulle biết là có thể trông cậy vào sự
trung thành của những người đại diện mình. De Gaulle bênh vực đến tận cùng đô
đốc d’Argenlieu, Cao ủy kiêm Chỉ huy trưởng quân đội Pháp tại Đông Dương khi
ông này bất đồng với tướng Leclerc mà theo hệ thống, phải ở dưới quyền d’Argenlieu.
Đầu
năm 1946, De Gaulle rời bỏ chính quyền với hi vọng sẽ được mời lại. Thật ra lập
trường của De Gaulle về Đông Dương cũng không khác gì những đảng phái chính trị
Pháp hồi bấy giờ. Ngoại trừ một vài nhóm cực tả, ngay cả ĐCS Pháp cũng không
sẵn sàng chịu tách một phần đất nào ra khỏi đế quốc. Trong một cuộc thăm dò ý
kiến hồi tháng 9-45, 63% người dân Pháp vẫn muốn Pháp giữ Đông Dương.
Những
người thân De Gaulle sau này muốn mọi người tin chỉ có De Gaulle mới có thể có
đủ khả năng chơi ” lá bài Hồ Chí Minh ” nếu còn nắm quyền chính. Người ta có
quyền nghi ngờ : từ khi từ bỏ chính quyền lần đầu, De Gaulle cứ nhắc đi nhắc
lại là chế độ này ( lnd: đệ Tứ Cộng hoà Pháp ) sẽ không cưỡng lại được
với một lực lượng cách mạng nào và sẽ không tránh khỏi, nếu phải điều đình với
Hồ Chí Minh, sẽ khó mà không phải từ bỏ mọi quyền của Pháp ở Việt Nam và phó
mặc những người dân còn tin cậy vào nước Pháp phải nằm dưới ” chủ nghĩa
Mác-Lê và dưới sự chi phối của Moscou “.
Đó
cũng là lí do mà De Gaulle viện ra để khuyên Leclerc nên từ khước đề nghị của
thủ tướng Paul Ramadier, tháng 11-46, thay thế d’Argenlieu. De Gaulle cho là
tương lai của Leclerc không phải nằm trong những cuộc chiến ở đồng ruộng Đông
Dương mà là hoạt động chính trị. Leclerc tỏ ra khá sáng suốt về chính trị Đông
Dương khi quên cái hung hăngi ban đầu là phải làm yếu Hồ Chí Minh trước khi
nghĩ đến đàm phán: Được thủ tướng Léon Blum phái đi thẩm tra ở Việt Nam
cuối tháng 12-46, Leclerc đưa ra ý kiến rất rõ ràng : ” chống cộng sản chỉ là
một đòn bẩy không có điểm tựa nếu không giải đáp được vấn đề chủ quyền quốc gia
của Việt Nam “.
Ngày
19-12-46, cùng một lúc với các nơi khác trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam,
2000-25000 dân quân tự vệ và quân đội Nhân dân tấn công bất ngờ khu người Âu ở
Hà Nội. Nhiều người Âu bị giết hay bị bắt làm con tin. Cuộc tiến công chỉ được
đẩy lui sau nhiều tuần xáp lá cà giành nhau từng khu phố một. Người ta coi đó
là khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương. Chiến tranh có thể tránh được,
theo sử gia Stein Tonnesson. Nhưng chắc chắn là nhiều người muốn nó xẩy ra,
trong số đó có De Gaulle. De Gaulle đích thân tán thành cuộc thử lửa này và
nghĩ là quân đội Pháp sẽ mau chóng làm chủ tình thế : Từ nay trở đi d’Argenlieu
sẽ là người chủ cuộc, có thể mặc sức hành động và giải quyết vấn đề. De Gaulle
còn sợ được tiếp nối lại sự đàm phán giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet, tổng
trưởng bộ Hải ngoại trong chính phủ Félix Gouin. Leclerc lại vừa mới gửi thông
chi cho chính phủ nói là phải từ bỏ chính sách dùng võ lực và phải thật sự cố
gắng dung hoà quyền lợi Pháp và quyền lợi Việt Nam của Hồ Chí Minh mà ông cho
lả một nhà quán quân về ý tưởng độc lập và là một người ái quốc “. Ông dặn dò
Cao ủy Émile Bollaert lần cuối (lnd: trước khi chết) là phải ” điều đình
với bất cứ giá nào “.
Cũng
thời gian đó De Gaulle lập ra đảng Tập hợp Nhân dân Pháp tháng Tư năm 1947. Rứt
khoát với cái chính sách đồng hoá có từ thời cộng hoà 1848, De Gaulle đưa ra
chính sách gọi là ” liên kết tuần tự ” với các xứ trong Liên hiệp Pháp. Tuy vậy
De Gaulle vẫn lấy cớ là cần phải bảo vệ Liên hiệp Pháp và chống cộng, ủng hộ đô
đốc d’Argenlieu trong việc tách rời Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. D’Argenlieu cho là
Nam kỳ đứng về phương diện lịch sử, địa dư và kinh tế không phải là một phần
đất Việt Nam và vin vào đó để phá hoại Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau, tạo
điều kiện cho một nền quân chủ lập hiến mà De Gaulle đã nghĩ đến từ 1945 còn
d’Argenlieu thì nghĩ đến cựu hoàng Bảo Đại từ năm 1946-1947. Khi được Jean
Sainteny cho biết dự định đó của d’Argenlieu, lãnh sự Mỹ ở Hà Nội tiên đoán là cái
đó chỉ đưa đến sự toạ lập một chính phủ bù nhìn và một cuộc chiến tranh, trái
với sự mong đợi của người Pháp. Giải pháp Bảo Đại được thành hình năm 1947. Mặc
dầu vẫn nghi ngờ Bảo Đại, rút cục De Gaulle cũng ngả theo lá bài Bảo Đại trong
bối cảnh thế giới mỗi ngày một mang dấu ấn chiến tranh lạnh, nhất là khi cộng
sản Trung Quốc toàn thắng và khi Pháp thua trận Cao Bằng.
Mãi
đến năm 1953, sau khi Staline chết, tình hình thế giới mới đỡ căng thẳng. Nhưng
để chống lại sự quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương làm mọi ảnh hưởng Pháp sẽ bị
loại trừ, De Gaulle mới nghĩ đến chuyện điều đình với Hồ Chí Minh. Tuy vậy De
Gaulle vẫn cho là nên đặt ưu tiên thương lượng thẳng vói Trung Quốc và Mỹ.
Tháng 3-54 khi chiến tranh Đông Dương đi vào giai đoạn quyết định cuối cùng với
trận Điện Biên Phủ, De Gaulle đã tin chắc là ” áp phe ” Đông Dương coi ” như là
đã kết liễu “, chỉ còn ” kiếm cho nó một thủ tục chôn nó cho đúng hình thức “,
” phải hiểu là Pháp không còn giữ được Đông Dương nữa, Đông Dương không còn là
của mình nữa “. Nhưng De Gaulle cũng coi như tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội
Pháp, là Hiệp định Genève tốt hơn người ta tưởng. Những nguyên tắc về độc lập,
chủ quyền và thống nhất đất nước Việt Nam, Cam Bốt và Lào được công nhận một
cách long trọng. Qua Hiệp Định Genève, Pháp có khả năng giữ được ảnh
hưởng mình ở miền Nam và có trhể đứng làm trung gian giữa hai miền như hi vọng
của những người theo De Gaulle. Ở miền Bắc, De Gaulle cũng tán thành một ” sự
hợp tác về kinh tế, văn hoá và, có thể một ngày kia, chính trị “. Tháng
8-54, De Gaulle khuyến khích Jean Sainteny nên nhận chức vụ Tổng đại diện chính
phủ Pháp ở Hà Nội .
Sau
khi chiến tranh Cao Ly và chiến tranh Đông Dương kết thúc, De Gaulle đổi hẳn
đường lối, muốn bắt cầu với những nước cộng sản Đông Nam Á và nghĩ đến chuyện
công nhận Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. De Gaulle muốn nước Pháp có một đường
lối chính trị độc lập ở Á châu và đóng một vai trò xây dựng trong sự thống nhất
Việt Nam. Thật là ngoạn mục sự thay đổi lập trường của De Gaulle, một người mà
từ trước tới nay vẫn được coi là thuộc phái bảo thủ đã biết vượt qua được lòng
tự ái của mình ! Khi đọc cuốn ” Lịch sử một cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ ” của J.
Sainteny, De Gaulle tự công nhận là mình đã sai lầm, đã không hỗ trợ toàn vẹn
những cố gắng điều đình với Hồ Chí Minh và đã nói to với Sainteny để mọi người
nghe thấy : ” Thật vậy, Sainteny, ông rút cục là người sẽ có lý “.
Ngô
Đình Diệm lên cầm quyền chính, giữa huyền thoại và thực tại
Ngày
16 tháng 6, chưa tới 48 giờ sau khi Mendès France được tấn phong thủ tướng, Ngô
Đỉnh Diệm được Bảo Đại ủy thác thay thế hoàng thân Bửu Lộc để thành lập chính
phủ. Ngay sau khi ký Hiệp định Genève, Paris đã báo cho tân thủ tướng quốc gia
liên kết Việt nam là Pháp chỉ công nhận nội các mới thành lập của Ngô Đình Diệm
là chính phủ hợp pháp. Vậy mà sao chỉ chưa đầy một tháng sau khi được tấn
phong, chỗ nào Diệm cũng bị coi là bù nhìn của Mỹ ? Hình ảnh sai lầm về
Diệm đã mọc rễ trong ký ức của nhiều người, nhất là những người
theo De Gaulle, khi thấy sự ủng hộ và sự hiện diện của Mỹ đi ngược lại với ý
định và quyền lợi chính trị của Pháp.
Diệm
không phải chui ra từ cái mũ của một thuật sĩ. Năm 1950, sống lưu vong ở Mỹ,
Diệm đã nhân cơ hội tiếp xúc với giới ưu tú Mỹ, đặc biệt là với các thượng nghị
sĩ John Kennedy và Mike Mansfield, với giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học
Michigan, với cựu giám đốc OSS William Donovan và nhất là với hồng y giáo chủ
Francis Spellman. Cuộc đấu tranh của Ngô Đình Diệm để thành lập một ” lực lượng
thứ ba ” chống cộng và chống thực dân lấy được cảm tình những người này. Là một
người cương quyết đòi cho được độc lập quốc gia không một chút nhân nhượng, hệt
như những người cộng sản đã bắt ông và giết anh ông, Ngô Đình Khôi, năm 1945.
Ông đã tạo ra được một tiếng vang khi từ chức hượng thư bộ Lại hồi còn trẻ,
tháng 9-33, để phản đối sự lộng quyền của viên khâm sứ Pháp đã ngăn cản mọi dự
định cải cách Ông cũng từ chối sự mời mọc của Bảo Đại khi còn chiến tranh Đông
Dương vì thấy là không đủ tự do với các nhà cầm quyền Pháp. Ông là người không
phải dễ để bị thao túng.
Trong
tập Hồi ký của mình Bảo Đại cũng không giấu là đã có mời Diệm lãnh đạo chính
phủ : ” Chúng tôi không còn trông cậy vào Pháp được nữa. Ở Genève, người Mỹ là
đồng minh độc nhất của chúng tôi…”. Nhưng sự lựa chọn Diệm cũng có lí do chính
trị đối với trong nước : quá khứ của Diệm và sự hiện diện của em ông là Ngô
Đình Nhu đứng đầu Phong trào Thống nhất Quốc gia, cho phép hi vọng lôi kéo được
một số người quốc gia có tiếng là triệt để.
Ở
Pháp Ngô Đình Nhu được mọi người biết hơn Diệm vì theo học ở trường đại học
Pháp điển ( École des Chartes ) và có kết nối bạn bè trong khoảng thập niên
1930 với Jacques Bénet, bạn kháng chiến của François Miterrand và là đảng viên
đảng Xã hội Pháp. Qua sự trung gian của ông này, Nhu tiếp xúc với nhiều lãnh tụ
đảng Xã hội và hi vọng qua những người này, ông anh lớn của mình, người mà Nhu
cho là chính trực nhất, tượng trưng tinh thần quốc gia đích thực nhất, sẽ đạt
được quyền hành
Trong
chiến tranh, Nhu tiếp tục trao đổi thư từ với Jacques Benet và có đàm phán
nhiều lần với những cộng sự viên của thủ tướng Joseph Laniel và tổng
trưởng bộ Ngoại giao Georges Bidault tháng Ba 1954. Hai người này quyết định
hội đàm riêng với Ngô Đình Diệm qua sự trung gian của Trần Chánh Thành và cả ba
đều thoả thuận những điểm căn bản. Tuy vậy Laniel và Bidault vẫn còn ngần ngừ
chưa nói với Bảo Đại. Phải đợi đến tháng 6-54 khi chính phủ của 2 ôg này có lẽ
sắp bị lật đổ hai người này mới nói với Bảo Đại là nên tấn phong Diệm làm thủ
tướng. Bảo Đại chấp thuận ngay.
Theo
hồi ký của Alain Griotteray phụ tá chính trị đối nội Việt Nam thuộc bộ
Quồc gia liên kết, người đã gặp riêng nhiều lần Diệm: “quyền lực thật sự ( ở
Việt Nam ) hồi đó nằm trong tay chính quyền Pháp. Hoàng đế ( sic ) không
thể bổ nhiệm Diệm nếu chính phủ Pháp chống đối. Người Pháp cũng có thể dùng áp
lực tài chính đối với Bảo Đại ( theo Newsweek mỗi năm Bảo Đại nhận được
của Pháp số lương là 500 ngàn đô la ).
Nói
tóm lại sự chọn lựa Diệm là cả Pháp lẫn Việt, nhưng đó là một chọn lựa nhằm mục
đích thoả mãn Hoa Kỳ. Cái trớ trêu là De Gaulle và những người thuộc phái De
Gaulle chỉ giữ ở Diệm hình ảnh một ” con nộm “chống Pháp được Mỹ đặt ra.mà
không biết là người tổng thống Nam -Việt Nam chỉ tăng tốc độ cho một quá
trình giải thực ( dân ) không thể tránh được trong khi vẫn dành một chỗ quá là
quan trọng cho những quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Nam -Việt Nam.
Luận
cứ De Gaulle dưới sự thử thách của các sự kiện
Cần
phải trở lại nguồn gốc của sự tranh cãi ngay sau chiến tranh thứ Hai mới chấm
dứt để hiểu mối oán giận của tướng De Gaulle và những người theo ông đối với
người Mỹ. Trong khi oanh tạc Đông Dương trong khung cảnh của cuộc chiến tranh
chống Nhật, Mỹ đã gửi nhiều đội OSS hợp tác với những nhóm kháng chiến chống
Nhật để làm những hoạt động hoạt động tình báo và khuynh đảo. Vì vậy mà năm
1945 OSS cung ứng cho những người tranh đấu đòi độc lập Việt Minh khá nhiều vật
liệu võ khí. Biết sự quan trọng của tuyên truyền, đồng thời cũng biết là tổng
thống Roosevelt có ý muốn tách Đông Dương ra khỏi chính quyền Pháp để đặt
dưới quyền giám hộ quốc tế, Hồ Chí Minh đã khéo biết khai thác sự liên kết bề
ngoài này với Hoa Kỳ .Những trưởng nhóm OSS đi công tác cũng tin chắc như tổng
thống của họ là chế độ thuộc địa không thể sống sót được sau khi chiến tranh
kết liễu và người Pháp không thể cứ khăng khăng giữ thuộc địa trong khi người
Anh, người Mỹ đang tính bỏ những thuộc địa ở Á châu. Sau khi Roosevelt chết
ngày 12-4-45, Truman mỗi ngày một bận tâm về mối nguy hiểm Liên Xô ở Á châu,
nên đổi hướng, quyết định đứng giữa không thiên về bên nào ở Đông Dương.
Quyết
định đứng trung lập này của Truman tới quá chậm và quá thời hạn để xoá bỏ được
cảm tưởng của những quân nhân và thường dân Pháp phải chịu đựng một mình cuộc
tấn công của Nhật 9-3, là đồng minh Mỹ đã phản bội mình, thiên về sự thành công
cướp chính quyền ở Hà Nội hơn là số phận của người Pháp. Ký ức của những người
Gaullistes hồi ấy là Hoa kỳ không những không làm dễ dàng cho sự người Pháp trở
lại Đông Dương, mà còn trực tiếp góp phần tăng cường sức mạnh của kẻ địch mình
là Việt Minh. Chiến tranh Đông Dương chỉ làm tăng sự nghi ngờ của người Pháp
đối với người Mỹ.
Bắt
đầu từ 1947-1948 và nhất là sau chiến thắng của Mao tháng 10-49, một vài hữu
trách chính trị và quân sự Pháp mới quyết định phải nhờ Mỹ giúp đỡ về vật liệu
và tài chính. Tháng Hai 1950, sau khi công nhận các Quốc gia liên kết Việt Nam,
Cam Bốt và Lào, Mỹ mới chính thức quyết định giúp Pháp. Nhưng một khi đã để cho
Mỹ vào cuộc, dù có muốn chỉ nhờ Mỹ giúp đỡ về vật chất, người Pháp đã mở chốt
cho một quá trình sẽ đưa đến sự phó mặc Đông Dương dưới ảnh hưởng Mỹ.
Sau
Hiệp định Genève, Mỹ được thể chui vào lỗ hổng Đông Dương khiến Pháp bực tức
đến cùng cực, nhất là những người thân De Gaulle. Để tránh cuộc khủng hoảng
bang giao giữa Pháp và Mỹ, Pierre Mendès France chính thức công nhận thế thượng
phong của Mỹ ở Đông Nam Á. Thỏa hiệp giữa tướng Ely và Collins ngày 13-12-54
bắt Pháp cam kết là phải thừa nhận sự tự chủ hoàn toàn của quân đội Quốc gia
Việt Nam và đặt các cố vấn và huấn luyện viên quân sự Pháp dưới quyền trưởng
nhóm MAAG ( Military Assistance Advisory Group ) là tướng O ‘ Daniel. Những
huấn luyện viên Pháp được mau chóng thay thế bằng những huấn luyện viên Mỹ.
De
Gaulle và nước Việt Nam của Ngô Đình Diệm : một mối liên lạc lập lờ
Bận
lo giải quyết những vấn đề tế nhị và khẩn cấp từ chuyện Hiến Pháp đệ Ngũ Cộng
hoà đến chiến tranh Algérie, tướng De Gaulle (lnd : trở lại chính quyền mùa
Xuân năm 1958 ) ủy thác cho bộ Ngoại giao và cho những tổng trưởng có liên
quan trực tiếp quản lí hồ sơ Đông Dương trong việc tái phục lại ảnh hưởng Pháp
và làm cân bằng lại sự hiện diện của Mỹ mỗi ngày một lớn. Ông không chống đối
lại sự tăng gia những mối liên lạc với Việt Nam Cộng hoà trong khi sự bang giao
với Hà Nội vẫn còn ở trong tình trạng căng thẳng mà nguyên nhân chính là các
chính phủ đệ Tứ Cộng hoà trước nay vẫn dành ưu tiên cho Sài Gòn và vì chiến
tranh Algérie. Tháng 11-59, tổng trưởng bộ Tài chính của De Gaulle, Antoine
Pinay ký một loạt thoả ước mới về tài chính, kỹ thuật và văn hoá với chính phủ
Diệm. Những tranh cãi về ruộng đất và tài chính được giải quyết trọn vẹn. Trong
bức thư cám ơn thủ tướng Michel Debré, Diệm gợi ý là về phần mình, sẵn sàng làm
sâu rộng mối bang giao Pháp-Việt. Tình trạng kinh tế và xã hội ở Nam-Việt Nam
hồi đó đáng lo ngại, căng thẳng với Mỹ về vấn đề kinh tế mỗi ngày một lớn, viện
trợ Mỹ bị các cố vấn của Diệm chỉ trích là không kiến hiệu và sau chót là Diệm
thấy quyền hành của mình quá mong manh nên cũng muốn tìm ở Pháp một chỗ dựa.
Sau đảo chính hụt 11-11-60 mà ngay toà đại sứ Hoa kỳ cũng không tỏ vẻ mạnh mẽ
chống lại như sự mong đợi của anh em Diệm, Nhu khẳng định với đại sứ Pháp Roger
Lalouette là ” nếu nước Pháp muốn, giờ của Pháp đã điểm ở Việt Nam “.
Để
lời nói đi đôi với viêc làm, chính phủ Diệm làm dễ dàng sự nhập cảng hàng Pháp
mặc dầu Mỹ ráng giấu sự không bằng lòng của mình. Trong địa hạt quân sự, Diệm
cũng có vẻ chỉ trích phương pháp của các huấn luyện viên Mỹ và cho là phương
pháp chống chiến tranh du kích của Pháp thích hợp hơn. Mỗi ngày Diệm một thêm
bực tức về sự vụng về và ngược thời của viện trợ Mỹ, cũng như vòng cương tỏa
của Mỹ mỗi ngày một quá đỗi sau cuộc viếng thăm của phó tổng thống Johnson
tháng 5-61, và của tướng Taylor tháng 10-61, Diệm tâm sự với Roger Lalouette là
ông muốn ” cân bằng lại sự chi phối của Mỹ bằng sự hiện diện của một cường quốc
thứ ba, ưu tiên là Pháp, hay Pháp cùng Anh “. Quai d’Orsay ( bộ Ngoại giao Pháp
) biết là Diệm bất lực trước sự mất an ninh mỗi ngày một lớn, nên mỗi ngày một
trở lên độc đoán, thất nhân tâm, bị cả 2 phía đe doạ :phía những người chống
cộng quá khích muốn dựa vào Mỹ nhiều hơn, phía những người theo Pháp muốn dân
chủ và trung lập. Nhưng bộ ngoại giao Pháp bị phó mặc, phải tự định đoạt lấy
đường lối trong sự giao thiệp với Sài Gòn nên chỉ có cách đứng ở thế trung
dung, thoả mãn một vài đòi hỏi của chính phủ Sài Gòn, đồng thời cũng tránh
những liên lạc cá nhân quá thân thuộc..
Có
lẽ cũng vì vậy mà De Gaulle tiếp tục từ chối không tiếp Diệm hay Nhu ở điện
Élysée mặc dầu nhiều nhân vật Pháp có mối liên lạc mật thiết với Diệm từ trước
tới nay như Marius Moutet ( Tổng trưởng bộ Hải ngoại năm 1946-47 ), Antoine
Pinay, bộ ngoại giao Pháp… Những người này tự cho mình trách nhiệm nhắc lại với
De Gaulle là năm 1959 tổng thống trước De Gaulle là René Coty có ngỏ ý mời Diệm
qua thăm Paris. Mùa Xuân 1960, Roger Lalouette, đại sứ Pháp, chuyển lời
của phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ muốn Diệm qua thăm Pháp hay nếu không được
thì cho chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ cũng là chủ tịch hội Pháp-Việt
Nam qua thăm. Một năm sau, tổng thư ký điện Élysée trình bày lí lẽ mong De
Gaulle chấp thuận cho Ngô Đình Nhu vào yết kiến trong triển vọng một cuộc thăm
viếng Paris. Lí lẽ đưa ra : Ngô Đình Nhu là một người thấm nhuần văn hoá
Pháp và là một người có ảnh hưởng lớn ở Nam-Việt Nam đến nỗi những người thân
cận cho là đây mới là đầu não của chế độ, Diệm chỉ là ông … trưởng phòng ! Về
phía Nhu, Nhu cũng muốn có sự giúp đỡ của Pháp để giành lại được một chút tự do
đối với Mỹ đang hăm dọa đẩy ông xa người anh để gia tăng sự giám hộ của Mỹ trên
đất nước.
Nhu
chỉ được vào yết kiến thủ tướng Michel Debré chưa đầy một giờ ngày 24-6-61. Khi
trở về Nhu tuyên bố rất hài lòng về cuộc thăm viếng… mặc dầu gặp ” chống cự
trên đỉnh ” . Cái chống cự này làm Diệm buồn rầu vì Diệm là người thành thực
ngưỡng mộ De Gaulle. Diệm đã có một lần tâm sự với Lalouette là ảnh hưởng của
De Gaulle ở những nước trong thế giới thừ Ba vừa lớn, vừa sâu rộng, vừa lâu dài
là vì De Gaulle từ chối thỏa hiệp với những sức mạnh của hỗn độn và không đứng
lại ở những quyền lợi vật chất nhất thời. Nhưng nếu Diệm khen ngợi De Gaulle
rất cương quyết với cộng sản ở Âu Châu, rất có óc độc lập và hợp tác với các
nước nói tiếng Pháp, thì Diệm cũng rất tiếc là ở Á châu De Gaulle đã nhượng bộ
trước tiếng kèn trung lập mà Diệm đồng hoá với một đường lối chính trị yếu ớt
và với chủ nghĩa thất bại.
Roger
Lalouette người mai mối giữa Bắc- và Nam- Việt Nam
Đầu
hè, chính phủ Diệm phải đương đầu với cơn khủng hoảng lớn nhất : cuộc nổi loạn
hoà bình của những người Phật giáo. Bị chính trị hoá mau chóng, cuộc xung đột
trở thành công khai giữa các nhà sư được sự hỗ trợ của một phần dân chúng và
chế độ thân công giáo của Diệm. Chính phủ Nam-Việt Nam đổ tội cho cộng sản thâm
nhập mọi chỗ đã tạo ra và nuôi nấng cuộc nổi loạn. Nhiều cựu tổng trưởng trong
chính phủ Diệm lại tố cáo ngược lại là chính CIA đã đổ dầu thêm lửa. Sự kiện
nhà sư Thích Trí Quang trốn vào nhà một nhân vật ngoại giao Mỹ, rồi trú ẩn ở sứ
quán Hoa Kỳ, chứng tỏ có bàn tay Mỹ nhúng vào. Nhiều bằng chứng tình báo Pháp
thâu thập được, vạch rõ vai trò của người Mỹ. Hoàng thân Bửu Hội khi đó làm đại
sứ Việt Nam Cộng hoà ở Maroc và ở nhiều xứ Phi châu có mẹ là môt sư bà đang sửa
soạn tự thiêu, khẳng định là có sự hiện diện của nhân viên CIA trong chùa Xá
Lợi và các nhân viên này đang tận tay “làm việc các nhà sư ” Hoàng thân thuyết
phục Diệm chấp thuận cho một phái đoàn của Liên Hiệp quốc tới Sài Gòn điều tra.
Đến Sài Gòn ngày 10-10-63, phái đoàn này đưa ra kết luận là không có đàn áp
Phật giáo. Cũng theo giáo sư luật Đại học Varsovie Maneli, trưởng đoàn
đại diện Ba Lan tại Ủy hội đình chiến năm 1963, thì CIA hỗ trợ những người Phật
giáo chống Diệm trái với ý của ngay cả của đại sứ Nolting.
Các
cơ quan Mỹ thì lại giải thích hoàn toàn khác : Hành động đàn áp của Diệm đã làm
một rắc rối nhỏ ở địa phương thành một khủng hoảng chính trị, có thể làm đổ sập
nền tảng của chế độ. Toà Bạch Ốc nhân cơ hội không ” xuống thang ” như đã giao
ước với Nhu nữa : Lẽ ra theo đúng kế hoach thì phải bớt lần lần số nhân viên
quân sự Mỹ từ 14 ngàn xuống còn 1500 cuối năm 1965. Trước sự từ chối của Diệm
không chịu cho Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ, Kennedy đem Cabot
Lodge thuộc đảng Cộng Hoà ngày trước là đối thủ tranh cử với mình, thay thế đại
sứ Nolting vì bị coi là quá gần Diệm.
Triển
vọng quân đội Mỹ tới làm cả hai bên đều sợ : Sài Gòn còn một chút tính hợp pháp
và một chút độc lập sẽ mất hết. Hà Nội đã trông thấy sự thành công trong việc
khuynh đảo miền Nam, cũng lo sợ là cuộc chiến tranh sẽ kéo dài khiến khó mà ra
khỏi được sự chế ngự mỗi ngày một lớn của Bắc Kinh và thoát được một cuộc khủng
hoảng kinh tế khá trầm trọng. Người Pháp cũng chia sẻ với cả hai bên mối lo
nghĩ đó nên còn tin tưởng vào một giải pháp chính trị và hài lòng khi nghe
những lời tuyên bố khá ôn tồn của cả hai bên bờ vĩ tuyến số 17 : Tháng 9-62, Hồ
Chí Minh tuyên bố với chủ tịch Ủy hội Quốc tế Ấn độ là muốn bắt tay với Diệm
được coi là một người ” yêu nước theo kiểu của mình “. Phạm Văn Đồng thì gợi ý
là đai diện Pháp Jean François de la Boissière nên viếng thăm Sài Gòn và trong
tương lai sẽ tiếp đón Roger Lalouette ở Hà Nội. Diệm cũng vậy, khi bàn
cãi với đại sứ Pháp cũng không gạt ra ngoài một cách dứt khoát triển vọng một
giải pháp hoà bình, nhưng muốn mình là người khởi xướng. Những người cầm quyền
Việt Nam muốn Pháp đặt nhịp cầu đầu tiên ? Triển vọng đó khá quyến rũ Paris,
nhưng Á đông vụ bộ ngoại giao dư biết là chuyện đó sẽ làm tăng thêm ảnh hưởng
của những người trong bộ máy chính quyền Mỹ muốn thay thế Diệm bằng một
chính phủ hoàn toàn được dùng để phục vụ những mục tiêu của Washington.
Roger
Lalouette là một nhà ngoại giao lão luyện và rất rành rẽ về những vấn đề Việt
Nam. Ông biết một hành động quá lộ liễu sẽ làm Diệm bị thay thế rất mau lẹ để
nhường chỗ cho một chính phủ hoàn toàn theo đường lối của Washinton. Ông quyết
định trao cho giáo sư Maneli, người mà ông tin cậy, một kế hoạch ba giai đoạn
cho Việt Nam : mở cuộc đối thoại giữa Hà Nội và Sài Gòn ; đặt những trao đổi
kinh tế và văn hoá ; tổ chức những cuộc hội đàm về chính trị. Maneli quyết định
chuyển tin ra Hà Nội nơi mà ông đi đi về về nhiều lần. Phạm Văn Đồng khẳng định
là ông lúc nào cũng sẵn sàng mở cuộc hội đàm, công khai hay bí mật, và tất cả
đều thương lượng được “trên căn bản độc lập và chủ quyền quốc gia “. Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra chỉ thị cho Xuân Thủy, tổng trưởng ngoại giao làm một danh sách
hàng hóa có thể trao đổi với miền Nam. Maneli tương đối lạc quan, trở lại Sài
Gòn nhất quyết gặp Nhu. Phạm Văn Đồng cũng đề nghị Diệm, để chứng tỏ thiện chí
của mình, cho lập lại trao đổi kinh tế và văn hoá giữa hai miền. Miền Bắc sẵn
sàng cung cấp than đá không đặt điều kiện nào với giá rẻ hơn giá trị trường thế
giới để đổi lại gạo, thực phẩm và cao su. Phải đương đầu với một cơn hạn hán
trầm trọng, Hà Nội cũng muốn thoát khỏi viện trợ của Trung Quốc, trở thành quá
bao trùm từ khi Trung Quốc và Liên Xô tuyệt giao..
Ngày
1-6-63, Roger Lalouette thông báo cho tổng thống Diệm những điều mật mà
Maneli thâu thập được. Điện Élysée cũng được thông báo về công việc mai mối của
người đại sứ của mình và không tỏ dấu hiệu gì là không muốn Lalouette tiếp tục
làm chuyện đó. Trong buổi trao đổi riêng với đại biểu Ba Lan nhân dịp tân tổng
trưởng ngoại giao Nam-Việt Nam Trương công Cừu mới nhậm chức, Nhu đề nghị tiếp
Maneli ngày 2-9. Sài Gòn lúc đó sống trong bầu không khí quá căng thẳng, bị
chìm đắm trong những tiếng đồn là sẽ có đảo chính và đang có những mặc cả thầm
kín..
Tướng
De Gaulle ” trở lại ” sân khấu Đông Dương
Bằng
một bản tuyên bố long trọng, tổng trưởng bộ Thông tin Alain Peyrefitte đọc ngày
29-8-63, vị tổng thống Cộng hoà Pháp quốc mở lại cái hồ sơ Đông Dương nóng bỏng
: ” Những biến cố trầm trọng đang diễn ra ở Việt Nam được nước Pháp chú tâm
theo dõi với đầy cảm xúc và muốn thật tâm chia xẻ với dân tộc Việt Nam những
thử thách mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng. Trong tình trạng hiện tại ở Á
châu, dân tộc Việt Nam, một khi có thể khuyếch trương mọi hoạt động của
mình trong hòa bình, thống nhất, độc lập với bên ngoài, và hoà hợp với các nước
lân bang, sẽ có thể đóng một vai trò cho sự tiến bộ của riêng mình và cho sự
thông cảm quốc tế… Lẽ tất nhiên là sự lựa chọn phương cách đi tới những mục
tiêu đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước Pháp sẵn
sàng, trong phạm vi có thể được của mình, tổ chức với đất nước này một cuộc hợp
tác hữu nghị. ”
Phủ
nhận một cách rõ ràng việc chia đôi Việt Nam, đồng thời cũng gắn liền với nhau
hoà bình, thống nhất và trung lập, De Gaulle khuyến khích mọi người Việt Nam tự
giải phóng khỏi ảnh hưởng quá mức của các thế lực ngoại bang : ảnh hưởng của ”
cộng sản quốc tế ở miền Bắc (nhất là Trung Quốc khi đó chế ngự tất cả ) ; ảnh
hưởng của Hoa Kỳ ở miền Nam.
Tuy
vậy bản tuyên bố 29-8 không tạo ra được sự phấn khởi cho các đương sự. Hà Nội
tỏ ra lãnh đạm và phải một tháng sau Phạm Văn Đồng mới công khai cám
ơn De Gaulle về sự ông tuyên bố tiếp tục hỗ trợ Hiệp định Genève. Ở Nam-
Việt Nam, ngược lại,, bản tuyên bố được đăng trên trang đầu tờ Việt Nam Báo.
Báo chí Sài Gòn cho là De Gaulle có ý muốn khích lệ chế độ và muốn cổ võ
chế độ độc lập với Mỹ hơn. Để chứng tỏ mình là ngưòi hiểu rõ tinh thần bản
tuyên bố, Nhu tuyên bố với báo chí ngày 11-9-63 là những ý định của tướng De
Gaulle – người có những ” cái nhìn hoàn vũ “, người ” biết thiết kế những dự án
vĩ đại ” – mà sau này, sau một kỳ hạn, chủ tâm của ông sẽ tạo ra được ” một
phương thức, cũng phải qua một kỳ hạn lâu dài, cho sự thống nhất xứ sở ”
Lẽ
tất nhiên là Washington là nơi tiếp nhận tồi tệ nhất lập trường của De Gaulle.
Người Mỹ cũng bối rối về phương hướng chính trị của Pháp về Việt Nam và cũng
trách cứ De Gaulle đã không giữ lời cam kết với Kennedy năm 1961 là không bao
giờ biểu lộ công khai lập trường của mình.
De
Gaulle, Lalouette và buổi chiều tàn của anh em Ngô
Ngày
24-8-63 toà Bạch Ốc gửi điện thư dặn dò đại sứ Lodge tìm một giải pháp để thay
thế Diệm khiến CIA thấy như được cho phép, khuyến khích một số hữu trách quân
sự Nam-Việt Nam làm đảo chính. Được báo tin là cuộc đảo chính chống anh em Diệm
sẽ xẩy ra tức thời, Lalouette khuyên Lodge nên nhẫn nại vì Lalouette luôn luôn
cho Diệm là hi vọng cuối cùng của hoà bình, vì là người duy nhất có thể đạt
được một thoả hiệp với Giải phóng miền Nam và Hà Nội. Ông tiên đoán hạ bệ Diệm
là một sai lầm không cách nào mà sửa được vì bất cứ một chính phủ nào khác cũng
sẽ phụ thuộc Mỹ nhiều hơn và sẽ không để một chút hi vọng gì cho một giải pháp
hoà bình. Lalouette nằm trong một nhóm nhỏ những người tán thành, đầu tháng 9,
những cuộc gặp gỡ giữa Nhu và Maneli, người trung gian của Ủy hội Quốc tế.
Ngày
3-9, sau khi đưa bản tuyên bố ngày 29-8 cho Diệm, Lalouette nói chuyện với Diệm
3 giờ. Diệm hét ầm lên : ” người ta nói, đang có dự định một cú bạo lực ( coup
de force ). Người ta nói, tính mệnh tôi bị lâm nguy. Không thể tưởng tượng được
là người ta có thể dùng đến những thủ đoạn như vậy đề chống chính phủ một nước
bạn…”.
Để
che giấu sự sửa soạn làm cuộc đảo chính, Lodge nói với Lalouette là ông ta sắp
đi gặp tổng thống Kennedy để xin gia hạn cho Diệm Nhu, ông ta thêm : ” Nhu bằng
lòng từ chức, bỏ Sài Gòn sống ở Đà Lạt. Nhưng Nhu không chịu rời bỏ Việt Nam vì
không muốn mất liên lạc với GPMN (lnd : chuyện ông Ngô Đình Nhu bắt liên lạc
với Phạm Hùng là có thật).
Không
thừa nhận chế độ mới ở Sài Gòn
Không
thể đưa ra đây những chi tiết cuộc đảo chính ngày 1-11-63 chống Diệm và ngày
2-11 anh em Diệm bị giết. Paris được yêu cầu công nhận chính phủ lâm thời đứng
đầu là Nguyễn Ngọc Thơ, cựu phó tổng thống của Diệm. Trong số 80 nước có liên
lạc noại giao với Việt Nam Cộng Hoà dưới Diệm, 30 nước đã công nhận chế độ mới.
Sài Gòn mong muốn sớm nhận được một dắu hiệu tích cực đến từ Pháp vì Pháp
vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở Nam-Việt Nam.
Paris
chỉ chính thức nhận thư của chính phủ Sài Gòn ngày 16-11, 10 ngày sau khi tiếp
được thư. Paris chỉ nói là sẽ tiếp tục những giao thiệp thường xuyên. Vì ngại
thiện cảm ban đầu đối với nước Pháp trở thành ác cảm có hại cho quyền lợi nước
Pháp, ban giám đốc Á châu sự vụ bộ ngoại giao thỉnh cầu De Gaulle nhiều lần
trong tháng 11 là nên công nhận chế độ mới. De Gaulle vẫn làm thinh.
De
Gaulle thật ra nhìn xa hơn và đúng hơn nhiều nhà ngoại giao. Giải pháp trung
lập mà ông đưa ra có thể tránh cho Nam-Việt Nam một cuộc chiến tranh lâu
dài và một sự bỏ rơi phũ phàng không còn gì là phẩm giá.
Có
lẽ trong thâm tâm, tướng De Gaulle hi vọng trung lập hoá riêng biệt 2 miền, Bắc
Việt và Nam Viêt. Nhưng ông cũng như người Mỹ, biết là rất khó khăn Bắc Việt
chịu bỏ chế độ cộng sản và sự trung lập của Nam Việt cũng khó mà được Bắc Việt
tôn trọng, Đồng thời cũng khó mà hãm được ý định ngự trị đang chớm nở của Trung
Quốc.
Tướng
De Gaulle chỉ đề ra cái đỡ tệ nhất : Sau một kỳ hạn, sự thống nhất Việt
Nam sẽ do người cộng sản thực hiện dưới cái vỏ trung lập.
Ý
đồ trung lập của tướng De Gaulle nằm trong những mưu toan chính trị – quân sự ở
Sài Gòn
Ngày
29-1-64, Lodge báo cho bộ ngoại giao Mỹ là tướng Khánh, tư lệnh quân đoàn I
Quân đội Quốc gia Việt Nam quả quyết với ông là đã khám phá được trong chính
phủ Nam- Việt Nam một âm mưu trung lập do Pháp gợi ý. Những tướng thân Pháp,
Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân bi coi là có dính líu. Lodge tin Khánh
là một trong những tướng có khả năng nhất và khác với tướng Trần Văn Minh, sẽ
ngả theo kế hoạch chiến tranh bí mật và thả bom Bắc Việt của lầu Năm góc. Lodge
đem Khánh và gia đình vào toà Đại sứ lánh nạn và hứa nếu cần sẽ di tản cả gia
đình ra khỏi nước bằng máy bay.
Đảo
chính ( của tướng Khánh ) xẩy ra ngày 30-1. Trước ngày đó Washington đã làm áp
lực xuống De Gaulle, làm như là nhóm tướng tá Nam Việt bị coi là có ý tưởng
trung lập có thể xử sự theo lệnh hay theo ý của De Gaulle.
Theo
nhiều bằng chứng mà các nhà ngoại giao và các cơ quan tình báo thâu thập được,
thì trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng, ngay sau Đảo chính 1-11, đã có 2 phái
theo 2 xu hướng khác nhau : xu hướng thiên về giải pháp của Pháp ( Dương văn
Minh, Lê văn Kim, Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Vỹ ), xu hướng trung
thành với đường lối của Mỹ ( Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Hữu Có,
Phạm xuân Chiểu, Đỗ Mậu ). Nội bộ quân đội trước đã rất mong manh, nay có thể
bị coi là đã tan vỡ. Tham vọng chính trị của các tướng lãnh quân đội được thả
giàn và những cuộc đảo chính nối tiếp nhau để các tướng lãnh thay nhau vơ
vét viện trợ Mỹ mỗi ngày một kếch xù.
Để
tránh Nam- Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản quá mau chóng, Johnson thấy cần
phải thuyết phục De Gaulle với bất cứ giá nào để De Gaulle tuyên bố là kế hoạch
trung lập hoá Nam Việt không phải là ngay tức khắc. Johnson kiếm được một đồng
minh là Gaston Deferre úng cử viên tổng thống đảng xã hội Pháp năm 1965. Được
tiếp ở toà Bạch Ốc, Deferre chỉ trích thẳng cánh chính sách trung lập hoá Đông
Nam Á của De Gaulle và cho là De Gaulle chỉ có mục đích làm Mỹ lúng túng.
Deferre hứa là khi trúng cử sẽ tức khắc đi đến Washington hỏi ý các đồng minh
trước khi quyết định đường lối chính trị của mình !
Paris
nghĩ là sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Nam-Việt Nam và sự hăm doạ leo thang
chiến tranh trong một kỳ hạn ngắn có thể là những quân bài chủ của Tây
phương nếu – và chỉ nếu – đặt mục đích tối hậu là thương lượng. Sự hoà hoãn của
Liên Xô có thể giúp ích cho việc đó. Là siêu cường quân sự độc nhất ở Thái Bình
Dương, Mỹ phải đối đầu với thế lưỡng nan của một cuộc chiến tranh với Trung
Quốc mà Mỹ vẫn coi như là một cường lực thuộc thủa sơ khai, hung bạo, hiếu
chiến và nuôi óc bành trướng. Nhưng để tránh một kịch bản chiến tranh, đổi lại
với một sự cam kết rõ ràng là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng một thứ
trung lập nào đó, Paris tin chắc là Mỹ có thể điều đình thẳng thắng với
cả hai, Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc..
Nếu
khó mà có thể nghi ngờ thái độ hoà hoãn của Liên Xô cho tới đầu năm 1965, thì
cho tới bây giờ vẫn khó mà biết được ý của Trung Quốc về những đề nghị đàm phán
của Pháp. Trong số các nhà sử học có người khẳng định là, với mục đích loại trừ
những kẻ thù theo ” chủ nghĩa xét lại “, Mao nghĩ đến chiến tranh nhiều hơn là
hoà bình, nhất là sau chuyện vịnh Bắc bộ. Nhiều người khác lại nhắc lại là
CHNDTQ đã khuyên Hà Nội thận trọng trước những gây hấn của Mỹ vì Trung Quốc
thật sự sợ bị lôi cuốn vào một cuộc đối đầu trực tiếp với Mỹ. Ít nhất là tới
đầu năm 1965, Trung Quốc khuyên đồng minh của mình nên để ngỏ cửa cho sự điều
đình.
Phân
tích lập trường của Hà Nội cũng ngần ấy khó khăn :Các nhà lãnh đạo VNDCCH, một
mặt muốn mở cửa điều đình với những thủ lãnh mới của Sài Gòn, một mặt, ngay từ
tháng 12- 63, đưa ra quyết định tăng cường áp lực quân sự tại miền Nam. Bộ
Chính trị đảng Lao Động có vẻ chia rẽ : nhiều nhân vật như Hồ Chí Minh,
Phạm Văn Đồng và có lẽ cả tướng Giáp tán thành giải pháp trung lập miền Nam
để tránh một cuộc chiến tranh lâu dài và ác nghiệt. Tuy nhiên với sự vươn lên
của Lê Duẩn trong lúc sức khoẻ của Hồ Chí Minh bắt đầu suy đồi, bộ Chính trị đã
bị bẻ theo hướng thân Trung Quốc. Tiếp theo là một làn sóng thanh trừng trong
nội bộ Đảng, trong giới trí thức và sinh viên. Chỉ mấy tuần sau, bộ Chính trị
chuẩn y gửi những đơn vị tác chiến đầu tiên của QĐNDVN vào miền Nam. Bắc Việt
cũng bắt đầu phải tập sự ngoại giao làm sao giữ được thăng bằng giữa 2 cường
quốc địch thủ cùng trong phe cộng sản. Bắc Việt cũng không muốn trở lại bàn hội
nghị nữa vì cảm thấy là nạn nhân của Hội nghị Genève năm 1954. Đại sứ Mai Văn
Bộ bộc lộ rõ ràng mối oán giận của các nhà hữu trách VNDCCH đối với Bắc Kinh và
sự ngờ vực đối với Paris, khi phê phán : ” Ở Genève chúng tôi đâu có nhờ người
Trung Quốc thương lượng. Họ đã chiếm chỗ của chúng tôi “. Lý Văn Sáu, cựu đại
biểu phái đoàn Giải phóng miền Nam trong hội đàm Paris cũng nói lại là nhiều
người Việt coi Hội nghị Genève là một bức chế.
Ý
chí muốn xích lại gần Hà Nội
Ngày
1-7-65, Mai Văn Bộ khẳng định với Nanac’h, giám đốc Á châu sự vụ bộ Ngoại giao
là chính phủ của ông muốn bình thường hoá quan hệ ngoại giao với nước Pháp.
Ngày 24- 1-66, Hồ Chí Minh gửi một lá thư cho tướng De Gaulle yêu cầu De Gaulle
dùng ” uy thế của mình để làm ngưng lại cho kịp thời những âm mưu nham
hiểm mới của Mỹ ở Việt Nam và ở Đông Dương “. De Gaulle viết thư trả lời ” chủ
tịch Hồ Chí Minh ” ngày 8-2. Ngày 15, bức thư trả lời được chính thức đăng trên
báo chí với những lời lẽ rất hoà giải và lễ độ làm ngạc nhiên và bực mình
những giới có liên hệ với Nam-Việt Nam.
Không
chỗ nào mà những lời chỉ trích sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam được giới truyền
thông nói tới nhiều bằng trong bài diễn văn Phnom Pênh. Nếu 73% dân Pháp đồng ý
với nội dung bài diễn văn đó thì cũng có nhiều chính khách, nhà báo, nhà ngoại
giao tiếc là De Gaulle chỉ cáo giác một bên là Mỹ và như vậy khó có thể đứng
làm trung gian giữa 2 bên được. Mendès France cho bài diễn văn vô ích, không
thực tế. Tuy Mendès France cùng quan điểm với De Gaulle về cách hay nhất để làm
mất sự sợ hãi giữa Mỹ và Trung Quốc là trung lập hóa toàn thể Đông Nam Á,
Mendes France khác De Gaulle về phương cách : cho cách hay nhất là De Gaulle
nên đi thẳng đến Hà Nội, Washington hay Bắc Kinh để trình bày những đề
nghị của mình ngõ hầu làm giảm bớt những nghi ngờ và những đối kháng.
Báo
chí Trung Quốc im hơi lặng tiếng về cuộc viếng thăm Cam Bốt của De Gaulle vì
các nhà lãnh đạo CHNDTQ coi Hiệp định Genève là đã lỗi thời trong khi De Gaulle
vẫn muốn dựa vào nó.
Sainteny
móc nối một đường dây cho tương lai
Sainteny,
tổng trưởng bộ Cựu chiến binh trong nội các Pompidou từ 1962 đến 1966 được De
Gaulle tin cậy vì là người đã tham dự nhiều về công chuyện Việt Nam và thỉnh
thoảng vẫn có liên lạc với những nhà ngoại giao người Việt và người Mỹ
công cán ở Paris. Ông nói với người Mỹ là Việt Nam thống nhất có lợi cho Tây
phương : ” biên thùy ” Nam Bắc được mở, những thành phần không cộng sản trong
nước sẽ được lợi thế vô kể vì, theo kinh nghiệm của ông khi còn ở Hà Nội, đa số
người dân miền Bắc không thích hệ thống cộng sản.
Cũng
vì De Gaulle biết Sainteny được các lãnh tụ cao cấp Bắc Việt như Hồ Chí Minh,
Phạm Văn Đồng mến chuộng nên ngày 24-2 ông được De Gaulle trao cho một bức thư
cầm tay cho chủ tịch nước VNDCCH, nói là De Gaulle muốn có những tiếp xúc mới
và chỉ giữa 2 người với nhau.
Sainteny
được Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao, phó thủ tướng tiếp ngày 4-7, và
sau đó được chính thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Ngày hôm sau 5-7, Sainteny được
tiếp chuyện riêng chỉ giữa 2 người với Hồ Chí Minh ở Chủ tịch phủ. Cảm tưởng
của Sainteny là chủ tịch VNDCCH không còn giữ quyền chính nữa mà giao phó cho
Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh có vẻ thất vọng về bức thư của De Gaulle. Tuy không
có ảo tưởng gì về những lời khuyên của mình, Sainteny cũng cảnh giác những
người đối thoại về hậu quả của một cuộc tranh đấu đến tận cùng, có thể làm lụn
bại Việt Nam hay làm Việt Nam rơi hoàn toàn vào quĩ đạo Trung Quốc. Rút
cục những cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, có vẻ
hữu ích cho mối bang giao Việt – Pháp nhiều hơn là tìm được một giải pháp ngoại
giao ..
Ảnh
hưởng của Bắc Kinh bao trùm Hà Nội lúc đó. Bắc Kinh thúc đẩy tiếp tục chiến
tranh để hưởng lợi : Mỹ bị thua một nước nhỏ, sẽ mất hết uy tín ở phương Đông,
bang giao giữa Washington và Moscou sẽ bị lục đục, sự tùy thuộc Bắc Kinh về
viện trợ sẽ mỗi ngày một lớn. Nhưng cái khốc liệt nhất là các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đang mở những cuộc thanh trừng các tầng lớp tư sản, trí thức, sẽ
tiếp tục đem chiến tranh Việt Nam ra để biện bạch.
Tuy
nhiên khi Sainteny gặp Phạm Văn Đồng lần thứ hai, lần đầu tiên Phạm Văn Đồng
nói sẽ ngưng xâm nhập nếu Mỹ ngừng thả bom. Bộ Ngoại giao Mỹ không giấu nổi sự
ngạc nhiên và bằng lòng. Dean Rusk ra huấn thị cho đại sứ Mỹ gặp Sainteny để
làm sáng tỏ những câu nói của Phạm Văn Đồng. Một ủy ban đàm phán do Averell
Harriman cầm đầu ủy nhiệm Giáo sư Henry Kissinger, ngôi sao đang lên của
Washington và cũng là chỗ quen biết của vợ Sainteny, Claude Dulong, lo việc
này. Kissinger gặp Sainteny ngày 13-6-1966 trước khi ông trở lại Á Đông.
Nói
tóm lại Sainteny đã không trở về với 2 bàn tay trống. Cuộc viếng thăm Hà Nội
của ông đã cho toà Bạch ốc thấy ông là người trung gian có tiềm năng. Toà Bạch
Ốc tưởng đã gạt bỏ được mãi mãi vai trò trung gian của chính phủ Pháp sau bài
diễn văn Phnom Penh.
Một
đường dây đầy hứa hẹn : Pennsylvania
Pennsylvania
là
mật mã của một đuờng dây bí mật trong đó có tên của 2 người Pháp không thuộc
ngành ngoại giao bên cạnh tên của giáo sư Kissinger : Hebert Markovich và
Raymond Aubrac. Marcovich là một nhà vi sinh vật học thuộc viện Pasteur Paris,
Aubrac là nhân viên cao cấp của FAO ( Tổ chức Liên Hiệp Quốc về thực phẩm và
canh nông ). Aubrac được mời vào đường giây này vì là cựu kháng chiến và là chỗ
thân tình của Hồ Chí Minh. Hai sứ giả Pháp được Henri Kissinger nhờ nhắn tin
với Hà Nội là chính phủ Mỹ sẵn sàng ngừng ném bom Bắc Việt với điều kiện là
VNDCCH không tăng cường thâm nhập Nam Việt. Kissinger nhấn mạnh chữ ” ngưng
tăng cường thâm nhập ” thay vì ” ngưng thâm nhập “.
Tới
Hà Nội ngày 21-7 hai trung gian Pháp được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đón tiếp, lấy
cớ để tái lập sự liên lạc giữa viện Pasteur Paris và viện Pasteur Hà Nội. Ngày
24, 2 người được gặp Phạm Văn Đồng. Marcovich đưa tin của Kissinger cho thủ
tướng VNDCCH. Aubrac nói thêm vào là vấn đề kiểm soát sự thâm nhập phải được
giải quyết và Mỹ hoan nghênh những đề nghị của Hà Nội. Thủ tướng hỏi ” Làm sao
họ biết được chúng tôi ngừng thâm nhập ?” Marcovich trả lời là với máy bay trinh
thám có thể kiểm soát được một phần.
Buổi
chiều Aubrac được Hồ Chí Minh tiếp. Sau 15 phút hàn huyên về gia đình Aubrac mà
Chủ tịch biết rất rõ từ khi còn ở nhà Aubrac năm 1946, Hồ Chí Minh bắt đầu bằng
một bài thuyết trình về lịch sử, địa dư và địa lí chính của cuộc chiến tranh,
rồi Hồ Chí Minh trở lại những câu chuyện thường và có ý nói là những chi tiết
về thuơng lượng đều do thủ tướng Phạm Văn Đồng nắm giữ.
Ngày
hôm sau 2 người gặp lại Phạm Văn Đồng. Ông lập lại với 2 người là ngưng chiến
đòi hỏi phải ngưng thả bom vô điều kiện, vô thời hạn và Mỹ phải rút quân khỏi
Việt Nam. Marcovich ngắt lời và có ý cho là thiếu thực tế. Phạm Văn Đồng đành
phải nói rõ ràng : Quân đội Mỹ có thể ở lại cho tới khi đạt được một thoả hiệp
chính trị ở Nam Việt. Nếu cần phải bàn bí mật thì bàn tuy không thích hội đàm
bí mật ( chỉ giữa Mỹ và Bắc Việt ). Không cần phải có sự tham dự của GPMN khi
những vấn đề được đem ra bàn không dính dáng gì tới Nam-Việt Nam.
Khi
trở về Paris, Aubrac và Marcovich vội vã tường thuật cho Kissinger nghe. Những
lời nói của Phạm Văn Đồng được Washington cho là thực tế và khích lệ : đàm phán
bí mật, không có sự hiện diện của GPMN, quân đội Mỹ vẫn có thể ở lại miền
Nam cho đến khi những vấn đề chính trị được giải quyết, thành lập một chính phủ
liên hiệp trong đó có.những nhân vật của chính phủ Sài Gòn.
Một
lần nữa toà Bạch Ốc đã không cho là cần thiết phải giảm bớt nhịp độ thả bom
miền Bắc song song với sự tiến bộ đạt được của đường giây Paris. Rội bom
ác liệt nhất trong chiến dịch Rolling Thunder là từ ngày 20 đến 23-8.
Chính phủ VNDCCH từ chối tiếp thư của các sứ giả Pháp gửi cho Mai Văn Bộ. Đường
giây bị tắt ngấm.
Sự
trỗi lên của đường dây Manac’ h
Tháng
10-1967, Manac’h nhận lời Mỹ đóng vai trò trung gian không chính thức giữa sứ
quán Mỹ ở Paris và tổng đại diện VNDCCH để chuyển vận thư tín và thúc gấp cuộc
đối thoại. Manac’ h nhận được khẳng định của Bộ ngày 8-12 : ” Nếu Mỹ ngưng thả
bom, sẽ có thể có những cuộc hội đàm “. Manac’ h nói với Bộ là vì vấn đề tâm lí
đối với dân Mỹ, cần phải nói rõ ràng hơn, khẳng định hơn, như ( “những cuộc hội
đàm sẽ diễn ra… ). Ngày 29-12 một bản tuyên bố của Nguyễn Duy Trinh bằng
tiếng Pháp được phổ biến với những động từ được chia ở Thì tương lai, không
chia ở điều kiện thức ( lnd : conditionnel trong văn phạm Pháp) nữa :
Sau khi ngưng thả bom vô điều kiện (…) VNDCCH sẽ bắt đầu những cuộc nói chuyện
với Hoa Kỳ về những vấn đề có liên quan…” Mai Văn Bộ khẳng định với Manac’ h là
bản tuyên bố hoàn toàn có tính cách chính thức và từ ngữ ” ngưng thả bom vô kỳ
hạn “đã được bỏ đi. Về thời gian từ khi ngưng thả bom đến khi mở cuộc hội đàm,
Bộ nói rõ : ” VNDCCH mở cuộc đàm phán ngay khi sự ngưng thả bom được thực hiện
”
Hai
địch thủ có vẻ đi gần nhau về những điều kiện được đòi hỏi để mở cuộc hội đàm.
Chọn
Paris làm chỗ hội đàm hoà bình
Ngày
20-1 1968, giáo sư Roussel chủ tịch hội Y giới Việt-Pháp, 3 ngày trước khi đi
công tác y tế ở Hà Nội, được mời tới điện Élysée để De Gaulle trao cho một
nhiệm vụ bí mật là thăm dò phản ứng cúa thủ tướng VNDCCH, không những về sự
tăng cường quan hệ Việt-Pháp sau bài diễn văn Phnom Pênh, mà còn về sáng kiến
của De Gaulle là mở những cuộc hội đàm sơ bộ về hoà bình ở Paris. Khi được Phạm
Văn Đồng tiếp kiến, Phạm Văn Đồng phát biểu ” Ông nói với tướng De Gaulle là
tôi đón nhận mọi ý kiến. Trái banh ở bên tướng De Gaulle “. Qua câu trả lời,
Điện Élysée coi là đã nhận được sự ưng thuận mặc nhiên của chính phủ Bắc Việt
về ý tưởng một hội nghị tương lai ở Paris bàn về hoà bình Việt Nam.
Theo
CIA, điện Élysée muốn chắc chắn có được sự hỗ trợ của cả hai chính phủ Việt Nam
về sự chọn lựa Paris, nên đã nhờ một người trung gian kín đáo trao cho chính
phủ Nam Việt một bức thư về sự lựa chọn này. Tuy không biết danh tính của người
trung gian này, nhưng chắc cũng phải là một nhân vật quan trọng mới tiếp xúc được
với những nhân vật cao cấp của chế độ như Nguyễn Văn Hiếu, cố vấn chính trị,
anh của tổng thống Thiệu, nhiều tổng trưởng trong đó có tổng trưởng ngoại giao
Trần Văn Đỗ và đại sứ Sài Gòn ở Mỹ. Người trung gian cũng nói riêng với một
nhân viên CIA là cuộc thăm viếng nhằm mục đích muốn soi sáng tổng thống Thiệu
và những cố vấn của ông về thái độ của De Gaulle và của những nhà hữu trách
chính trị Pháp đối với chính phủ Nam Việt và về những diễn tiến chính trị trong
sự quyết định của Bắc Việt khi chấp thuận những cuộc thương lượng. Người trung
gian cũng biện bạch cho sự xích lại gần Hà Nội của Paris là muốn cân đối ảnh
hưởng của Trung Quốc cộng sản và chính phủ Pháp vẫn quyết tâm giúp chính phủ
Nam Việt bằng mọi phương tiện có thể được, vì có trách nhiệm tinh thần với
những người Việt Nam chống cộng đã chiến đấu cho và với người Pháp. Người trung
gian cũng nói hi vọng cuộc hội đàm diễn ra khi Hồ Chí Minh còn sống chứ không
với Lê Duẩn hay với Trường Chinh. Chính phủ Pháp cũng cho quyết định hội đàm
của Hà Nội là một hành động can đảm trước những áp lực của Bắc Kinh chống cuộc
hội đàm.
Hoàn
toàn là tình cờ hay là kết quả của đường giây bí mật này? Trong một cuộc phỏng
vấn dành cho báo Evening Star ngày 23-4, Trần Văn Đỗ khẳng định là
Nam-Việt Nam không bác bẻ sự chọn lựa Paris làm nơi hội đàm sơ bộ giữa các nhà
ngoại giao Mỹ vả Bắc Việt, và ngay cả cho những cuộc hội đàm sau này nếu mang
lại kết quả. Bắc Việt và Nam Việt đều có quan hệ ngoại giao với nước Phàp và
các nhà ngoại giao Nam Việt có thể đóng vai trò quan sát viên của mình một cách
tự do.
Kết
luận
Ngày 24-4-69, tướng
De Gaulle lấy cớ không được tín nhiệm trong một cuộc trưng cầu dân ý, từ chức.
Từ sau biến cố tháng 5-68 ông đã nhất quyết sửa soạn ra đi để bảo toàn phẩm giá
cho mình. Ông chỉ chờ cơ hội..
Khi
ông đưa ra một giải pháp để thay thế sự can thiệp quân sự của một cường quốc có
quân lực mạnh nhất thế giới, khi ông cố gắng đẩy xa chiến tranh lạnh ở những
nước Đông Nam Á bị tù túng trong những liên minh, rồi thúc gấp mở ra những cuộc
đàm phán, phải chăng De Gaulle đã góp phần cho sự thăng bằng thế giới ?
Đường
lối chính trị của De Gaulle đã đưa tới sự hòa giải biểu tượng với Việt Nam mà
không chối bỏ tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Những giá trị chung giữa các nền văn
minh được công nhận và được đặt lên trên những tách biệt về lí tưởng và những
khủng hoảng từ đó mà ra. Sự thừa nhận những giá trị đó đến từ một người đã biết
tự nhận những lỗi lầm của mình để từ đó đã rút tỉa được những bài học tích cực.
Một người biết chấp nhận tầm vóc bi kịch của Lịch sử.
©
Phong Uyên
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment