Yu-Chien Kuan (Quan Ngu Khiêm)
Phan Ba dịch
Tháng Bảy 21, 2013 Comments: 3
Không một câu hỏi nào khác làm cho giới trí thức Trung
Quốc xao động nhiều hơn là câu hỏi này. Các cuộc tranh cãi về điều này được
tiến hành không phải chỉ mới đây. Chúng đã bắt đầu trước đây nhiều thập niên,
chính xác hơn là còn trước đây cả thế kỷ rồi. Cho đến ngày hôm nay, ngưởi ta
không tìm được câu trả lời. Các tranh luận về câu hỏi này đã để cho những lời
kêu gọi lật đổ và cải cách, từ bỏ và tiếp tục, quay trở lại và hiện đại hóa
vang to lên. Làm sao có thể cai trị một đất nước to lớn như thế để cho tất cả
mọi người đều hài lòng? Dẫu sao đi nữa thì không thể với chế độ hoàng đế chuyên
quyền ngày trước và với tư tưởng cai trị của Khổng Tử, cái đã không thể dẫn dắt
vương quốc cũ đi vào thời Hiện đại được. Khi các thế lực Phương Tây bước vào
vùng đất dọc theo bờ biển của Trung Quốc, điều đó đã làm bộc lộ sự lạc hậu và
tính yếu ớt của đất nước này và gióng lên hồi chuông bắt đầu cho một thời kỳ
biến động về chính trị và tư tưởng. Vì với những con người xa lạ đó và với tri
thức về kỹ thuật mới và khoa học hiện đại, các tư tưởng mới và các ý tưởng của
Chủ nghĩa Tự do, Chủ nghĩa Marx và dân chủ cũng nhập vào trong nước. Các học
thuyết mới được hào hứng tiếp nhận, bởi vì phải giải phóng Trung Quốc ra khỏi
những xiềng xích của sự lạc hậu và Chủ nghĩa Truyền thống, và làm cho nó mạnh
hơn, để nó có thể chống cự lại được với những thèm muốn của các thế lực ngoại
quốc.
Những nhà cải cách và những nhà cách mạng
Đầu tiên là phải kể đến Khang Hữu Vi (1858 – 1927), một
trong những nhà cải cách nổi tiếng nhất của thế kỷ 19 đang chấm dứt và của thế
kỷ 20 đang bắt đầu. Được đào tạo trở thành một học giả Khổng Tử cổ điển, ông đã
học hỏi Phương Tây và kiến thức của Phương Tây qua sách vở. Ở Hongkong thuộc
địa Anh và trong những vùng đất nhượng lại cho người nước ngoài ở Thượng Hải,
ông làm quen với các biện pháp cầm quyền và với cách sống của Phương Tây. Ông
là người đầu tiên công khai kêu gọi từ bỏ tục lệ bó chân tàn nhẫn. Tác phẩm của
cả đời ông là Đại Đồng Thư, được ông hoàn thành năm 1902 sau gần hai
mươi năm làm việc. Trong đó, ông phác thảo một thế giới không tưởng, không có
nhà nước quốc gia, biên giới và giai cấp, và nam nữ cũng như tất cả các chủng
tộc đều bình đẳng. Với những ý tưởng như quốc hội thế giới, ông đã đi trước
thời của mình cho tới mức ông chỉ dám công bố một phần ba quyển sách vào năm
1913. Mãi đến năm 1935, toàn bộ tác phẩm mới được xuất bản.
Nhờ đỗ đạt trong hệ thống thi cử quốc gia mà Khang đã có
đủ điều kiện để có thể nhận được những chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước.
Ông là một người trung thành với chế độ quân chủ. Cả đời mình, ông đã khước từ
cách mạng và không chịu hủy bỏ chế độ hoàng đế. Tuy vậy, ông đã nghĩ đến một
chế độ quân chủ lập hiến. Với các ý tưởng cải tổ của mình, ông đã có ảnh hưởng
sâu đậm đến giới trí thức trẻ, giới cảm nhận sự thua kém của Trung Quốc trước
các thế lực xâm lăng nước ngoài như là một nỗi nhục quốc gia. Hội “Học để tự
cường” do ông thành lập được cho là đã có một lực thúc đẩy quyết định cho các
cuộc cách mạng 1911 và 1949.
Năm 1898, ông đã thuyết phục thành công hoàng đế trẻ tuổi
và cởi mở Quang Tự tin theo các ý tưởng cải cách của mình, người sau đó theo
lời khuyên của Khang đã ban hành nhiều biện pháp tái cấu trúc bộ máy quốc gia
và hành chính. Nhưng chỉ sau một trăm ngày, các thế lực bảo thủ ở triều đình mà
đứng đầu là Từ Hy, người vợ góa của hoàng đế trước đó, đã chấm dứt các cải
cách. Bà nhìn chúng như một mối đe dọa cho quyền lực tuyệt đối của mình. Với
một cuộc đảo chính, bà tước quyền lực của người hoàng đế trẻ tuổi và quản thúc
ông tại gia cho tới cuối đời. Qua đó, họ đã đánh mất cơ hội cuối cùng để chống
cự lại với sự suy tàn đang đe dọa triều nhà Thanh. Sáu nhà cải cách đứng đầu bị
xử tử. Khang Hữu Vi trốn thoát ra nước ngoài trong đường tơ kẻ tóc. Chỉ sau khi
triều đình bị lật đổ, ông mới trở về lại Trung Quốc.
Thuộc trong số những người theo Khang Hữu Vi là học trò
Lương Khải Siêu của ông, người sau khi học xong theo lối cổ điển cũng quay sang
với các tư tưởng Phương Tây và giúp đỡ người thầy của mình trong các cố gắng
cải cách của ông. Cả hai cái tên đó, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, cho tới
ngày nay vẫn còn đại diện cho cuộc Cải cách Trăm ngày [Bách Nhật Duy Tân] tuy
thất bại nhưng mang tầm quan trọng đó. Ngoài ra, Lương Khải Siêu được xem là
nhà tiên phong của báo chí Trung Quốc. Ông nhận ra được quyền lực và khả năng của
các cơ quan báo chí mà người ta có thể phổ biến các ý tưởng chính trị với
chúng.
Khác với các nhà cải cách trung quân Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên (1866 – 1925) đấu tranh để lật đổ triều đình và
cho một hình thức nhà nước cộng hòa. Ngay từ thời trẻ, ông đã tiếp xúc với tư
tưởng Phương Tây qua thời gian học tập ba năm tại Hawaii, sau đó ông đã học Tây
Y ở Hongkong. Bị thu hút bởi những ý tưởng tiến bộ mới, ông cống hiến toàn bộ
cuộc đời và hoạt động của mình cho cuộc cải mới Trung Quốc. “Thuyết Tam Dân”
xuất phát từ ông, các thuyết về dân tộc chủ nghĩa, dân quyền chủ nghĩa và dân
sinh chủ nghĩa. Thuyết Dân tộc có ý định lật đổ những người cai trị xa lạ từ
Mãn Châu mà tổ tiên của họ đã xâm chiếm Trung Quốc năm 1644. Nó cũng đấu tranh
cho sự thống nhất của Trung Quốc và tái lập hoàn toàn quyền tự chủ quốc gia
trước các thế lực ngoại quốc. Thuyết Dân sinh yêu cầu xóa bỏ bất bình đẳng xã
hội và chia ruộng đất đồng đều. Thuyết Dân quyền bao hàm việc từng bước tiến
hành một hệ thống dân chủ. Thế nhưng để chống lại sự đe dọa của nước ngoài, lúc
ban đầu Tôn đã hướng tới một nhà nước quốc gia mạnh, cái cần phải được dẫn dắt
bởi một nhóm người có khả năng.
Là lãnh tụ của phong trào cách mạng, Tôn Dật Tiên bị
chính phủ hoàng đế truy nã, vì vậy mà phần nhiều là ông ở nước ngoài, thường ở
Nhật, nước thời đó là một nơi trú ẩn cho các nhà đối lập người Trung Quốc.
Tháng 10 năm 1911, ở Vũ Xương xảy ra một cuộc khởi nghĩa, cái nhanh chóng nhận
được sự ủng hộ trong khắp nước và qua đó không những đã gióng lên hồi chuông
chấm dứt triều nhà Thanh mà cả chế độ hoàng đế mang nặng ảnh hưởng Khổng Tử kéo
dài hơn hai nghìn năm nữa. Điều dễ hiểu là những người nổi dậy đã chọn Tôn Dật
Tiên được kính trọng ở trong và ngoài nước làm tổng thống đầu tiên của chính
phủ lâm thời. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn tuyên bố thành lập nước Cộng hòa
Trung Hoa ở Nam Kinh. Chỉ một tháng sau đó, ông đã từ bỏ chức vụ, giao về cho
người lãnh tụ quân đội nhiều quyền lực Viên Thế Khải, trong hy vọng rằng người
này với quân đội được trang bị hiện đại của mình có thể bảo vệ nước cộng hòa
trẻ tuổi trước các lực lượng của hoàng đế và các thế lực quân sự cạnh tranh.
Một sai lầm, vì sau đó Viên quyết định thành lập một triều đại riêng, và lên
ngôi hoàng đế với sự giúp đỡ của Nhật. Kế hoạch thất bại năm 1915 trước khi ông
lên ngôi vì sự phản đối ở trong và ngoài nước. Ông chết một năm sau đó.
Năm 1912, Quốc Dân Đảng được thành lập. Tôn Dật Tiên đảm
nhận chức chủ tịch và đưa phương án của thuyết Tam Dân Chủ nghĩa do ông phác
thảo ra làm nền tảng cho chương trình của đảng này.
Tôn Dật Tiên qua đời năm 1925. Dưới thời những người kế
nghiệp ông, phương án của thuyết Tam Dân Chủ nghĩa không được thực hiện.
Mặc dù thất bại, cho tới ngày nay Tôn Dật Tiên vẫn còn
được người Trung Quốc xem như là người cha của một Trung Quốc Cộng hòa.
Cùng với sự chấm dứt cai trị của hoàng đế, những năm
tháng của một đạo quân tiên phong trẻ tuổi cũng bắt đầu, những người mà với các
ý tưởng của họ đã đóng góp vào cho một sự khởi dậy về tinh thần và cho một cuộc
cách mạng văn hóa. Đại học Bắc Kinh trong những năm 1916 đến 1926 đã trở thành
trung tâm cho các hoạt động của họ.
Thái Nguyên Bồi đã học đại học về lịch sử nghệ thuật,
triết học và tâm lý học ở Berlin và Leipzig. Sau khi nước Cộng hòa thành lập
năm 1912, Tôn Dật Tiên đã mời ông giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Thái nghe
theo lời kêu gọi, nhưng quay trở lại Đức ngay lập tức sau khi Tôn thất bại. Mãi
đến những năm sau này ông mới có thể toàn tâm lo xây dựng một hệ thống giáo dục
hiện đại mà cho đến ngày nay ông vẫn còn được xem như là người đã sáng lập ra
nó. Hệ thống do ông tạo ra từ bỏ các truyền thống Khổng Tử cổ điển và có hướng
đến các gương mẫu Phương tây với trường tiểu học, trung học và đại học của nó.
Trong thời gian là hiệu trưởng của trường Đại học Bắc Kinh,
Thái đã nhận những người trí thức tự do trẻ tuổi làm giáo sư và giảng viên,
những người mà tất cả họ cũng như ông đã được đào tạo theo lối cổ điển và sau
đó, trong lúc học đại học ở Mỹ, Âu hay Nhật đã tiếp xúc với những ý tưởng mới.
Trong số họ là Trần Độc Tú, người đã học đại học ở Nhật và Pháp. Sau khi trở
về, ông thành lập tờ báo Thanh Niên Mới để tuyên truyền những ý tưởng
mới của Phương Tây và kêu gọi giới trẻ Trung Quốc chống lại trật tự xã hội cũ.
Ông lên án Đạo Khổng như là nguyên nhân cho sự lạc hậu và đàn áp, và ủng hộ dân
chủ và khoa học hiện đại. Các tin tức về thành công của Cách mạng Tháng Mười ở
Nga, nước cũng lạc hậu tương tự như Trung Quốc, khiến ông quan tâm tới Chủ
nghĩa Marx. Cũng mang ấn tượng về những gì đang xảy ra ở Nga là đồng nghiệp của
ông, Lý Đại Chiêu, người đã tiếp xúc với tư tưởng Marx ngay từ lúc còn học ở
Nhật. Lý thuộc trong số những người mở đường cho Chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc.
Lúc đầu, ông làm việc trong một thư viện rồi sau đó là giáo sư của Đại học Bắc
Kinh. Trong số những người giúp việc trong thư viện của ông có một người con
trai nông dân trẻ tuổi từ tỉnh Hồ Nam: Mao Trạch Đông.
Hồ Thích đi theo một con đường khác, người đã học về
triết học ở Hoa Kỳ. Với lời kêu gọi “Hãy dẹp bỏ cái cửa hàng Khổng Tử!”, ông
cũng chống lại những giá trị của đạo Khổng và ủng hộ một định hướng đến gương
mẫu Phương Tây. Nhưng khác với Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu, ông khước từ một
cực đoan chính trị. Không phải cách mạng, mà là tiến hóa mới là con đường cách
tân Trung Quốc, cùng với sự dẫn nhập khoa học và kỹ thuật hiện đại và xây dựng
một hệ thống chính phủ dân chủ, cái vì sự rộng lớn vượt bực của Trung Quốc mà
cần nên theo nguyên tắc liên bang. Với lời yêu cầu của mình, không dùng chữ
viết cổ điển trong văn học, tức là ngôn ngữ của các học giả, mà nên dùng ngôn
ngữ bình dân dễ hiểu hơn, ông ấy đã tạo một động lực quyết định để cải mới văn
học. Hồ Thích là một trong những người đầu tiên yêu cầu bảo vệ quyền con người,
cái ông nhìn thấy bị đe dọa sau khi Quốc Dân Đảng lập chính phủ năm 1928 và
quay trở lại một chính quyền tập trung.
Một trí thức cách mạng khác ở Đại học Bắc Kinh là Lỗ Tấn
(1881 – 1936), người ngày nay được xem như một trong các nhà văn quan trọng
nhất của Trung Quốc hiện đại. Khi còn là sinh viên y khoa ở Nhật, ông đã nhận
ra rằng chỉ có thể cứu chữa cho đồng bào của mình khi hướng dẫn họ tới một lối
suy nghĩ khác nhờ vào những từ ngữ được in ra. Vì vậy mà ông ấy là một trong
các nhà văn đầu tiên đã viết các tác phẩm của mình trong ngôn ngữ bình dân hiện
đại. Trong đó, ông lên án hết sức rõ ràng những tình trạng tồi tệ trong xã hội.
Do không cảm thấy thuộc vào đảng nào nên ông không khoan dung cho cả những
người bảo thủ lẫn những người tiến bộ trong phê bình của ông. Ai ai cũng sợ cái
lưỡi nhọn của ông. Ông buộc tội những người theo đạo Khổng rằng họ đã vi phạm
chính những giá trị cao cả của họ, và buộc những người dân chủ là đạo đức giả.
Ông có ảnh hưởng mạnh đến giới trí thức trẻ. Cho tới ngày nay, các truyện kể
của ông hầu như không mất đi tính thời sự.
Sau này, Mao Trạch Đông nói về những người thời đó tụ tập
quanh hiệu trưởng đại học Thái Nguyên Bồi, rằng họ hầu như không để ý đến ông,
người phụ việc trong thư viện. Làm sao mà họ có thể đoán được rằng người con
trai nông dân trẻ tuổi từ Hồ Nam rồi sẽ có lần đặt dấu ấn mang tính quyết định
lên sự việc cải mới Trung Quốc?
Yu-Chien Kuan (Quan Ngu Khiêm)
Phan Ba dịch
*
*
Yu-Chien Kuan (Quan Ngu Khiêm)
Phan Ba dịch
Tháng Bảy 24, 2013 1 phản hồi
Từ con trai nhà nông trở thành “hoàng đế”
đỏ
Các sự kiện quanh ngày 4 tháng 5 năm 1919 là động cơ
chính: niềm tin của giới trí thức trẻ, đứng trước sự lạc hậu của Trung Quốc đã
hướng tới những tư tưởng tự do Phương Tây, bị lay động mạnh. Các tấm gương
Phương Tây của họ, nhất là người Mỹ, những người rất thích nói về quyền tự chủ
của các dân tộc, không muốn cho người Trung Quốc có những điều đó. Với Hiệp ước
Versailles, các vùng đất trước thuộc nước Đức trong Trung Quốc được giao lại
cho người Nhật. Qua đó, tất cả các hy vọng của một Trung Quốc độc lập và tự chủ
đã tiêu tan. Sinh viên nổi giận của Đại học Bắc Kinh sau đó đã tổ chức những
cuộc biểu tình sôi sục, lan rộng khắp nước trở thành một phong trào chống đối
yêu nước kéo dài nhiều tháng và đã dẫn tới đình công trong các nhà máy và tẩy
chay hàng hóa Nhật. Có người gọi các sự kiện này là sự thức tỉnh của quốc gia
Trung Hoa. Một nhận thức dân tộc mạnh mẽ tác động đến tất cả các tầng lớp quần
chúng và bắt buộc chính phủ Trung Quốc từ chối không ký vào Hiệp ước
Versailles. Các cuộc nổi dậy đã đi vào lịch sử Trung Quốc như là “Phong trào
ngày Bốn tháng Năm”. Chúng đánh dấu lần bắt đầu của Trung Quốc hiện đại, vì với
những cuộc phản đối đó, các sinh viên đã tạo ra một phong trào cách mạng mạnh
mẽ, bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại trật tự xã hội cũ. Qua phá vỡ các cấu trúc
phong kiến và hiện đại hóa rộng khắp, xã hội sẽ được giải phóng khỏi xiềng xích
của truyền thống, cái được xem như là nguyên nhân cho sự yếu ớt của quốc gia.
Từ các sự kiện của 1919, sinh viên Bắc Kinh tự xem mình như là đội quân tiên
phong về chính trị.
Trên đường tìm gương mẫu mới, những cái có thể dẫn đất nước
họ ra khỏi sự khốn cùng của lạc hậu, tầm nhìn của giới trí thức trẻ được hướng
đến Moscow và Chủ nghĩa Marx hơn một lần.
Mao Trạch Đông, con trai của một nông dân khá giả, đã tốt
nghiệp khóa đào tạo giáo viên ở Trường Sa, trước khi ông đến Đại học Bắc Kinh
năm 1918. Tuy ngay trong năm 1919 ông đã trở về lại Trường Sa để dạy ở một
trường tiểu học, nhưng lần gặp gỡ các giáo sư và cũng là những người theo Chủ
nghĩa Marx Lý Đại Chiêu và Trần Độc Tú đã có ảnh hưởng lâu dài đến ông. Năm
1921, cùng với hai người này, ông thuộc vào trong số những người thành lập Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Cuộc họp thành lập Đảng ở Thượng Hải bổ nhiệm ông làm bí
thư của tỉnh Hồ Nam là quê hương của ông, và qua đó đã đặt viên gạch đầu tiên
cho sự nghiệp chính trị nổi tiếng của ông.
Từ khi triều đình bị lật đổ năm 1911, các tướng lĩnh địa
phương thống trị nhiều vùng rộng lớn của đất nước nhiều năm liền. Để cuối cùng
rồi cũng tái lập được sự thống nhất của đất nước, những người Cộng sản quyết
định cùng với những người của phái dân tộc chủ nghĩa chống lại giới quân đội.
Thế nhưng liên minh này tan rã chẳng bao lâu sau đó. Sau cái chết của Tôn Dật
Tiên năm 1925, Tưởng Giới Thạch tiến lên trở thành quyền lực quyết định trong
Quốc Dân Đảng và cũng trở thành chính trị gia dẫn đầu của đất nước sau khi sự
thống trị của các tướng lĩnh địa phương chấm dứt. Với sự thăng tiến này của một
cựu quân nhân chuyên nghiệp, cuộc cách mạng dân chủ chấm dứt. Dưới thời Tưởng
Giới Thạch, đất nước phát triển trở thành một chế độ quân sự độc tài, cái sau
một cuộc nội chiến gây nhiều tổn thất để chống lại những người theo Đảng Cộng
sản đã tìm thấy sự chấm dứt của nó năm 1949.
Năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã gây thảm bại đầu tiên cho
những người cộng sản. Những người này tổ chức một cuộc biểu tình ở Thượng Hải,
bị đập tan một cách đẫm máu theo lệnh của Tưởng Giới Thạch. Hàng nghìn công
nhân và người Cộng sản bị giết chết trong lúc đó. Sau đó, người Cộng sản phải
rút lui về nông thôn. Do vậy mà Mao Trạch Đông bắt đầu thăng tiến trong Đảng.
Vì khác với các lực lượng theo gương mẫu Nga, nhìn đội ngũ công nhân như động
lực cho những biến đổi tận gốc, Mao cho rằng một cuộc cách mạng ở Trung Quốc
chỉ có thể xuất phát từ nông dân. Giới công nhân lúc đó chiếm chưa tới 1% của
toàn dân cư trong khi nông dân chiếm hơn tám mươi phần trăm. Mao nhận ra rằng,
cách mạng, khác với trong nước Nga, phải được mang từ làng mạc vào thành phố.
Nhờ nhận thức này mà ông chiến thắng được các đối thủ của ông, những người tiếp
tục giữ chặt lấy đường lối của Nga và đứng trong mâu thuẫn sâu sắc với ông. Thế
nhưng họ tiếp tục thất bại trong khi Mao với các cơ sở du kích ở nông thôn đã
có thể tăng cường ảnh hưởng của những người Cộng sản ở nông thôn một cách bền
vững. Ông giành lấy thiện cảm của nông dân bằng cách thực hiện một cuộc cải
cách ruộng đất trong những vùng do người Cộng sản kiểm soát, và chia ruộng đất
về cho những người nông dân nghèo và không có đất.
Đối với Tưởng Giới Thạch, cuộc chiến chống những người
Cộng sản quan trọng hơn là cuộc chiến chống người Nhật xâm lược, những người
năm 1931 đã chiếm đóng miền Bắc Trung Quốc. Qua đó, ông không những đã mất đi
nhiều thiện cảm trong người dân mà còn cả trong Quốc Dân Đảng của ông nữa.
Trong nhiều chiến dịch bao vây, ông cố gắng tiêu diệt những người Cộng sản. Năm
1934, với chiến dịch lần thứ năm và cũng là chiến dịch cuối cùng, ông đã bắt
buộc họ phải rời bỏ các cứ điểm của họ ở miền Trung và Nam Trung Quốc. Sau đó,
khoảng 100.000 chiến binh Cộng sản đã phá vòng vây của địch thủ, và mặc dù bị
tấn công và rượt đuổi, sau một cuộc bộ hành gần 12.000 kilômét kéo dài tròn một
năm dài đã tới được miền Bắc của đất nước, nơi họ xây dựng một cơ sở mới trên
vùng Cao nguyên Hoàng thổ thuộc miền Bắc Thiểm Tây, ở Diên An. Chưa tới một
phần mười của đạo quân ban đầu đến được nơi đó. Ai sống qua được cuộc Vạn Lý
Trường Chinh huyền thoại này, người đó có uy quyền hết sức đặc biệt. Mao Trạch
Đông sở hữu nó và trong những năm sau này là cả Đặng Tiểu Bình.
Vào những năm đầu của cuộc đời chính trị, Mao vẫn còn
cách rất xa phong cách cai trị chuyên quyền của ông sau này. Khi có thể nhìn
thấy được, rằng người Nhật sẽ tiếp tục các chiến dịch xâm chiếm của họ về phía
Nam, ông kêu gọi người Quốc gia cùng nhau kháng chiến. Chỉ khi thống nhất tất
cả các lực lượng và giai cấp lại thì người ta mới có thể chiến thắng được kẻ
thù. Tại Hội nghị Toàn quốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong tháng 5 năm 1937
ở Diên An, ông đọc một bài diễn văn về cuộc kháng chiến chống những người Nhật
xâm lược. Dưới đoạn “Cuộc chiến đấu vì dân chủ và tự do”, có thể đọc trong tập
đầu tiên của Tuyển Tập Mao của ông, cái cũng có thể xuất phát từ những
người đối lập của ngày hôm nay vì nó vẫn còn mang tính hiện hành: “Trung Quốc
phải bắt đầu tiến hành cải tạo dân chủ ngay lập tức theo hai hướng sau đây: thứ
nhất, trong lĩnh vực hệ thống chính trị, phải thay thế hệ thống chính phủ của
chế độ độc tài phản động của một đảng phái và một giai cấp […] bằng một hệ
thống chính phủ dân chủ dựa trên sự cộng tác của tất cả các đảng phái và tất cả
các giai cấp. […] Thứ nhì là về tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội cho
nhân dân. Không có những tự do này thì người ta sẽ không thể thực hiện được
công cuộc cải tạo dân chủ hệ thống chính trị được […].”
Khi Mao cuối cùng rồi nắm được quyền lực thì dường như
những yêu cầu đó đã bị lãng quên. Ngay lời nói đầu của Hiến Pháp năm 1954 cũng
đã nhấn mạnh tới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong nhà nước mới, chỉ họ
là có quyền quyết định. Họ quyết định chính phủ cần phải làm gì. Và những gì
Đảng Cộng sản quyết định là do người chủ tịch đầy quyền lực Mao Trạch Đông quyết
định. Ông đứng ở trên cao nhất, trên Đảng. Không ai có thể kiểm soát ông, không
ai có thể ngăn chận ông. Ông không chấp nhận những ý kiến khác, và ai không cúi
mình trước ý muốn của ông thì đến một lúc nào đó sẽ bị tiêu diệt. Qua đó, ông
tương ứng với một thành ngữ xưa của Trung Hoa: “Nhất sơn bất dung nhị hổ.” Ông
là nhà cai trị chuyên chế, viên hoàng đế mới. Một hoàng đế đỏ. Lời nói của ông
là đạo luật. Huyền thoại về cuộc chiến chống lại những kẻ thù trong và ngoài
nước và lần thành lập nhà nước cũng như những hy vọng gắn liền với cá nhân ông
về một xã hội xã hội chủ nghĩa hạnh phúc chẳng bao lâu sau đó đã lên đến tột
bậc trong sự tôn sùng cá nhân có một không hai. Và cũng như những kẻ thù trước
đây đã không đối xử nhẹ nhàng với những người Cộng sản trước 1949, Mao cũng thể
hiện giống như thế trong cung cách đối xử với những địch thủ được tuyên bố và
bị phỏng đoán của ông trong và ngoài Đảng.
Yêu cầu nắm quyền lực của Đảng Cộng sản cả ngày nay cũng
được gắn chặt vào trong Hiến Pháp Trung Quốc. Ngày nay, trong điều một của nó,
định nghĩa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nhà nước xã hội chủ nghĩa
dưới nền chuyên chính dân chủ của nhân dân: “Hệ thống xã hội chủ nghĩa là hệ
thống cơ bản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cấm bất cứ tổ chức hay cá nhân
nào phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa.” Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
được hướng dẫn bởi Chủ nghĩa Marx-Lênin, nhờ vào tư tưởng Mao Trạch Đông và các
lý thuyết của Đặng Tiểu Bình mà nền chuyên chính dân chủ của nhân dân được giữ
vững.
Đảng Cộng sản nắm quyền toàn trị. Không có phân quyền lẫn
kiểm soát. Các ý kiến khác biệt không được hoan nghênh. Không được phép hoài
nghi về yêu cầu lãnh đạo của Đảng. Chỉ chính Đảng mới có quyền suy nghĩ về việc
đó và quyết định liệu họ có sẵn sàng phân chia bớt quyền lực hay không và bao
nhiêu.
Yu-Chien Kuan (Quan Ngu Khiêm)
Phan Ba dịch
No comments:
Post a Comment