Tác giả: M.S.
Người dịch: Thủy
Trúc
Posted by basamnews on 01/01/2013
Sẽ quan trọng tới mức nào nếu nước Mỹ có
một vị ngoại trưởng xuất sắc? Tôi quả thật không biết. Nói như thế này đi: Hãy
thử nghĩ về bất cứ một sự nghiệp nào mà chính nước Mỹ đã theo đuổi trong 50 năm
qua. Nào, nếu bạn lên danh sách 10 nguyên nhân hàng đầu khiến Mỹ quyết định
theo đuổi cái sự nghiệp đó, thì liệu các nỗ lực ngoại giao của bất kỳ một quốc
gia nào khác có được đưa vào danh sách nguyên nhân ấy không? Trong một số
trường hợp, có lẽ có. Nhưng không thường xuyên. Bây giờ, bạn hãy đảo lại hai
cực ấy. Đấy là lý do vì sao mà tôi rất hoài nghi về chất lượng hoạt động ngoại
giao của Mỹ, tôi không tin rằng nó luôn có ảnh hưởng lớn đối với những gì các
nước khác quyết định làm. Sự bất tài, khoác lác và đáng ghét, có thể khiến bạn
chuốc lấy sự thù địch một cách không cần thiết, nhưng cho dù chính sách ngoại
giao của bạn là xuất sắc hay kém cỏi, thì có lẽ cũng không chắc là bạn sẽ
thuyết phục được các quốc gia khác nhanh chóng thay đổi quyết định của họ về
các chính sách lớn, ví dụ như là chính sách theo đuổi phát triển năng lực hạt
nhân.
Hãy nói về việc ông John Kerry được bổ
nhiệm. Blake Hounshell cho rằng ông Kerry rất có tiềm năng là “sự lựa chọn tốt
để làm ngoại trưởng cho nhiệm kỳ thứ hai của Obama”, nhưng ông ấy nói như thế
vì những lý do tôi không muốn chia sẻ. Ông ấy nghĩ Kerry có thể làm tốt công
việc đàm phán, thương lượng giữa phe Taliban và chính quyền Afghanistan; tôi
thấy hình như ông ấy sẽ làm cho từng chuyện nhỏ của hai bên đều khác hẳn nhau
đi (make every bit as much difference), như Henry Kissinger đã từng làm
hồi đàm phán hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Về chuyện Iran, Blake Hounshell nghĩ
ông Kerry sẽ “khai thác kiệt cùng các lựa chọn” trước khi đặt bút ký ủng hộ một
chiến dịch ném bom; tôi hy vọng điều này đúng, và sự lựa chọn đó sẽ được thu
xếp để kéo dài tới ít nhất là năm 2017, là khi vị ngoại trưởng kế tiếp Kerry có
thể đặt lại vấn đề này. Về chuyện Bắc Triều Tiên, Blake Hounshell hy vọng ông
Kerry sẽ “nghiên cứu khả năng gặp gỡ”, nghe có vẻ là một ý tưởng hay mà chúng
ta không nên trông đợi là sẽ tạo ra được nhiều kết quả hơn so với lần trước. Về
chuyện Syria, ngay cả ông Hounshell cũng phải dùng cụm từ “nhiệm vụ bất khả
thi” và hy vọng sẽ có một chiến lược nào đấy, chỉ cần “ít tệ hại hơn” là được.
Cuối cùng, về vấn đề Israel-Palestine, ông Hounshell cho rằng những diễn biến
tồi tệ trong suốt bốn năm qua xuất phát từ sự lơ là của Hillary Clinton, điều
này tôi không hiểu lắm, và ông có một niềm hy vọng táo bạo rằng ông Kerry “ít
nhất sẽ làm ra vẻ như là chính quyền Obama đã có chiến lược”.
Mặt khác, ở tầm vi mô, tôi nghĩ đôi khi
việc ai làm ngoại trưởng cũng có thể tạo ra một sự khác biệt lớn. Một lần nữa,
lấy ông John Kerry làm ví dụ. Có một quốc gia nơi Mỹ có ảnh hưởng đáng kể, nơi
John Kerry đặc biệt có ảnh hưởng kỳ lạ, và là nơi các hành động can thiệp bằng
ngoại giao của Mỹ thường xuyên có ảnh hưởng rất tích cực đến vấn đề nhân quyền,
ít nhất là của những cộng đồng nhỏ. Nơi ấy là Việt Nam. Ông Kerry, con người
được mang cái danh hiệu từ- cựu-chiến-binh-trở-thành-phản-chiến, cực kỳ được
yêu mến ở Việt Nam, được ca tụng khắp nơi nhờ vai trò chủ chốt mà ông cùng John
McCain đã đóng trong những năm 1990, trong việc giải quyết vấn đề POW-MIA (tù
binh chiến tranh và người Mỹ mất tích – ND) và tái thiết lập quan hệ ngoại giao
và mậu dịch. Ông không chỉ có những mối quan hệ trực tiếp, rất hữu hảo với các
nhà lãnh đạo cộng sản của Việt Nam, mà cá nhân ông cũng là người rất nổi tiếng.
Hình ảnh ông trong các tài liệu tuyên truyền được trưng bày trong hàng loạt bảo
tàng Việt Nam, ca tụng những gì mà chính quyền Mỹ đưa ra như là hành động đền
bù của Mỹ cho những chính sách ương ngạnh của họ thời chiến tranh, cùng với
việc Việt Nam lại nổi lên như một thành viên được cộng đồng quốc tế công nhận
và có một mối quan hệ thân thiết đến khó chịu, có phần hơi tíu tít, với Mỹ.
Điều đó sẽ đặt ông Kerry vào một vị thế tuyệt vời để vận
động cho những thay đổi tuy nhỏ nhưng rất có ý nghĩa trong chính sách của Việt
Nam, chẳng hạn như trả tự
do cho luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân, người mà Việt Nam vừa bắt hôm
thứ năm vừa qua với tội danh trốn thuế.
Chúng ta hãy hiểu rõ việc này: Lê Quốc Quân
không bị tù vì trốn thuế. Đây là lần thứ ba anh bị giam giữ. Lần đầu, anh bị
bắt vào năm 2007 khi từ Mỹ trở về nước, vì anh đã cả gan nhận một học bổng để
theo học về dân chủ ở Học viện Dân chủ Quốc gia. Sau khi về Việt Nam, anh liên
tục bảo vệ cho những người bất đồng chính kiến và các blogger trước tòa, biểu
tình đòi tự do thờ nguyện Công giáo và chống Trung Quốc, và tham gia các hoạt
động chính trị khác nhau, đều gây bực tức cho chính quyền. Lần này anh bị giam
vì Việt Nam đang tiến hành một chiến dịch xử lý blogger, rõ ràng là có liên
quan đến tình hình kinh tế tối tăm của đất nước, các vụ bê bối tham nhũng,
tranh giành quyền lực, trong cái thế giới mà quan hệ chính phủ-doanh nghiệp đan
xen xoắn xuýt, và sự bất mãn ngày càng gia tăng.
Ở Việt Nam hiện có
rất nhiều người bất đồng chính kiến bị tù. Mỹ sẽ không thể khiến Việt Nam phải ngừng hành động bắt
bớ người bất đồng chính kiến; Đảng Cộng sản không thích tự sát về chính trị. Mỹ
cũng sẽ không thể buộc Việt Nam phải cho phép công dân Việt Nam được làm tất cả
những gì họ muốn trên Internet. Nhưng Việt Nam phụ thuộc vào thị trường xuất
khẩu hàng hóa sang Mỹ, phụ thuộc vào sự hỗ trợ về cả quân sự lẫn ngoại giao của
Mỹ trong cuộc chiến của Việt Nam với Trung Quốc quanh vấn đề chủ quyền trên
Biển Đông. Điều đó khiến Mỹ có thể tuyên bố rõ rằng, Việt Nam sẽ trả một cái
giá nhất định, khi vừa bị khó xử vừa bị giảm hỗ trợ, nếu họ đi vượt khỏi những
giới hạn thông thường nào đó trong việc họ đàn áp người bất đồng chính kiến.
John Kerry, với những ưu điểm có được từ các phẩm chất riêng, đang ở một vị thế
có thể vạch ra những giới hạn đó, phần nào mạnh mẽ hơn một ngoại trưởng nào đó
khác vốn không được Việt Nam xem như anh hùng trong sự nghiệp hòa giải Việt-Mỹ.
Ông nên tận dụng vị thế này để cố gắng đưa Lê Quốc Quân và một số nhà hoạt động
dân chủ bạn hữu ra khỏi nhà tù. Và tôi hơi lạc quan mà cho rằng ông sẽ làm việc
đó.
Nguồn: The Economist
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
No comments:
Post a Comment